chương 34. Thuyết pháp cho vong hồn
Nhưng đại bàng chẳng hề lại gần mà chỉ từ xa đánh tới, khi ngọn lửa lao đến gần phương thì đột nhiên một ánh chớp lòe nơi ngực phương xuất hiện, rồi ánh chớp đó nhằm hướng lửa ấy mà phóng ra, lao ra không trung hóa thành quầng lửa lớn dội thẳng vào quầng lửa của đại bàng… hai lửa chạm nhau long trời lở đất, rồi dần dần lửa kia đẩy ngược lửa của đại bàng trở lại nhanh chóng đã bén sát tới thân, đại bàng thấy nguy hiểm thì bay vυ't lên không mà tránh nhưng nào còn kịp nữa, ngọn lửa kia đã liếʍ vào thân vào cánh, đại bàng bốc cháy rừng rực rồi phút chốc tan đi chẳng còn thấy đâu nữa.
Thật là,
Lửa quỷ thần tuy mạnh
Chẳng thắng lửa phật bà
Quan âm cho pháp bảo
Mệnh trừng phạt yêu ma.
Lúc này mạch sông vắng tanh, không gió cũng chẳng sóng, bóng sông trong hơn, chỉ còn hai bên bờ sông lau sậy có những lửa nhỏ cháy âm ỉ râm ran, những con vong ma ngạ quỷ căn cơ lâu bền dưới sông này vẫn đang cháy lên ngùn ngụt mà than trời kêu đất trước ngọn lửa của kim sí điểu…
Cũng ngay khi ấy thì người dân và các sư chùa thanh trúc đã ùn ùn kéo ra, thấy bóng người trên cầu thì họ hớt hải chạy ùa lên, mấy người dân lên trước thấy phương thì trói gô lại, bẻ gập tay về sau vì cho là thủ phạm phóng hỏa, đoản hô hoán nhau lấy xô thùng gầu chậu mà múc nước dưới sông lên đổ vào nơi các đám cháy.
Chỉ riêng thầy đại trí chạy hớt hải tới thì hét to người dân thả phương ra, đồng thời thầy nhìn xuống lòng sông đã chẳng còn sát khí, nhìn hai bên bờ thì cảm nhận được ác vong ma đang bốc chấy, kêu la ai oán thấu trời.
Thầy mới gàn hết người dân lại, rồi đoạn nói với họ rằng:
“xin các vị chớ lo, bần tăng lấy thân ra bảo đảm sẽ dẹp yên nạn lửa sông này, các vị không cần cố dập lửa nữa…”
Người dân bán tín bán nghi thì sư đã ngồi ngay nơi bờ sông, một học trò tiến lại thắp lên ba cây hương, sư cắm xuống chỗ mô đất ở bờ sông, quay mặt ra sông mà khấn bài văn tế thập loại chúng sinh*.
(*văn tế sử dụng cho ngày rằm tháng bảy cúng vong ma ngạ quỷ vất vưởng. bài tế đó như sau:
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
rời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Văn này ta tế cho:
Một, Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tham danh vọng mà quên mạng sống.
Hai, Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về nhan sắc…
Ba, Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh sát trong taỵ..
Bốn, Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đem mình vào cướp ấn nguyên nhung” phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình…
Năm, Những kẻ tính đường trời phú bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang…
Sáu, Những kẻ “rắp cầu chữ quý”
Bảy, Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguỵ..
Tám, Những kẻ thương buôn đường xa
Chín, Những kẻ phải đi lính
Mười, Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào “buôn nguyệt bán hoa”
Mười một, Những người hành khất “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”
Mười hai, Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên
Mười ba, Những kẻ hữu sinh vô dưỡng
Mười bốn, Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha
Mười lăm, Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thuỷ, hoả, ác thú…
Mười sáu, Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc.
Và cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ phép Phật mà thoát khổ. Lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thoát trong luân hồi.
Đọc xong bài kinh ấy, chợt thấy các lửa ở bên sông tắt ngúm, vong ma ngạ quỷ đang quằn quại nơi bờ sông trong ngọn lửa nghe xong đều tan đi tìm chốn âm ti mà chịu thọ khổ, lửa độc vì thế cũng tan đi, mặt sông yên ả trở lại, chỉ còn làn khói nghi ngút thoảng bay trong không trung, người dân trong khu nghe xong bài văn tế cũng rơi nước mắt xót thương cho các vong mà ngạ quỷ, phần lại thấy lửa chỉ sau một bài thơ mà tắt, ai nấy đề hoài nghi, hướng về phía sư và sông và lạy, rồi giải tán cả ai về nhà nấy, riêng phương được các thầy đưa thẳng về chùa nhưng không nghe, cứ đòi đến nhà hạ, thầy đại trí nói hạ chết rồi thì òa lên khóc vật ra, ngất lên ngất xuống đến mấy lần, các thầy liền cử vài vị bế đưa thẳng về chùa, số còn lại theo thầy đại trí quay lại nhà hạ để thu dọn vật lễ đàn tế, không ai biết rằng mẹ hạ đã mất và chuyện về sau…
Thật là,
Lửa quỷ thần, sao bằng lửa phật
ở bến sông, sư tế vong hồn