Trong lĩnh vực cảm nhận vạn vật và thông hiểu cổ kim, không thần thú nào sánh được với Bạch Trạch. Ngay cả những tu sĩ nhân tộc chuyên tu hành bói toán cũng không thể vượt qua thiên phú của Bạch Trạch, những bậc trí giả bẩm sinh cảm ứng được thiên đạo.
Dẫu vậy, thần thú có thể xếp sau Bạch Trạch chính là Kỳ Lân.
Kỳ Lân, với vai trò là thần thú may mắn, sở hữu năng lực phong phú và đa dạng, không bị ràng buộc bởi bất kỳ thuộc tính nào – tương tự như linh căn của nhân tộc. Kỳ Lân còn có thiên phú thần thông, với các loại hình phong phú đến mức khiến người ta hoa mắt.
Thế nhưng, theo sự tiến hóa của thế giới, quy tắc thiên đạo dần nghiêng về phía nhân tộc. Các tộc thần thú cũng vì vậy mà suy tàn, và Kỳ Lân không phải ngoại lệ.
Mặc dù không đến mức như Bạch Trạch – gần như tuyệt diệt, chỉ còn lại mười phần một – nhưng số lượng Kỳ Lân cũng đã bị giảm sút nghiêm trọng.
Hai tộc Long và Phượng nhờ dựa vào hoàng tộc và quý tộc nhân gian mà phần nào ổn định được vận thế. Mối quan hệ cộng sinh này vừa có lợi, vừa có hại.
Ưu điểm là dù số lượng giảm, Long và Phượng vẫn giữ được sự ổn định tương đối và có xu hướng phát triển mới. Nhưng nhược điểm rõ ràng là năng lực của hai tộc này bị suy yếu, từ khả năng bẩm sinh và cảm ứng tự nhiên, nay phải dựa vào vận thế của nhân tộc và tích lũy công đức để tương hỗ lẫn nhau.
Kỳ Lân lại không đi theo con đường đó.
Dù trong dân gian, Kỳ Lân luôn được ca ngợi với danh tiếng tốt đẹp, là thần thú được kính trọng nhất, nhưng Kỳ Lân không sống dựa vào nhân loại.
Điều này khiến tương lai của Kỳ Lân trở nên bấp bênh, như bèo dạt giữa cơn mưa gió, chỉ có thể tiến từng bước một cách chật vật.
Khi Du Nhan Trúc – thiếu chủ Kỳ Lân tộc – ra đời, cả tộc đều tin rằng đây là cơ hội thay đổi vận mệnh của họ.
Nhưng thiên đạo lại không cho phép.
Dẫu vậy, với tư cách là một trong những Kỳ Lân có tư chất tốt nhất trong lịch sử, Du Nhan Trúc sở hữu thiên phú thần thông xuất chúng đến mức khiến người ta kinh ngạc.
Thần thông của hắn là học tập, có thể học các năng lực của những Kỳ Lân khác.
Nhờ đó, năng lực cảm nhận và bói toán của Du Nhan Trúc gần như không thua kém những người chuyên tu hành theo con đường này.
Thế nhưng, ngay cả khi sử dụng mai rùa cổ tám ngàn năm, hắn vẫn chẳng thu được gì.
Nếu tính cả bóng dáng mờ nhạt của đứa trẻ, miễn cưỡng coi như có chút kết quả.
Nhưng bói toán kiểu gì lại ra bóng dáng của chính mình?
Điều này hoàn toàn không liên quan đến câu hỏi của hắn.
Du Nhan Trúc nhíu mày sâu hơn, cố gắng suy đoán từ bóng dáng đứa trẻ đó.
Tộc Kỳ Lân đã mấy ngàn năm không có ấu tể, có lẽ đây không phải thời thơ ấu của một Kỳ Lân nào khác. Nghĩ tới nghĩ lui, lần cuối cùng Kỳ Lân xuất hiện chính là hắn.
Vậy… bóng dáng đó vẫn là của hắn sao?
Ngoài sự bối rối, Du Nhan Trúc không cảm thấy điều gì khác.
Nhưng chỉ riêng cảm xúc đó đã là rất hiếm thấy đối với một người vốn lạnh lùng như hắn.
Nếu Khang Dịch là kẻ lạ lùng trong tộc Thanh Loan, thì thiếu chủ Du Nhan Trúc cũng là một kỳ quái trong tộc Kỳ Lân.
Bề ngoài, Du Nhan Trúc có vẻ đoan chính và trầm ổn, nhưng thực chất lại lạnh nhạt, cảm xúc ít ỏi, tựa như thiếu mất một dây thần kinh. Cả tộc Kỳ Lân đã cố gắng uốn nắn tính cách của hắn nhưng không thành công.
Nếu không nhờ hắn có trách nhiệm, giữ lời hứa, phẩm chất xuất sắc, có lẽ các thần thú đã nghi ngờ hắn là một “sao chổi” trời sinh.
Khang Dịch còn thường càm ràm rằng Du Nhan Trúc nên bị đá ra khỏi hàng ngũ thần thú. “Tứ hung thú phải thêm một con, chính là ngươi!”
Suy nghĩ thêm một lúc, xác định mình khó lòng thu hoạch được gì, Du Nhan Trúc đành dùng lý trí ấn tượng của mình để kiềm chế sự tò mò.
Chỉ sau vài hơi thở, hắn hoàn toàn bình tĩnh trở lại, rồi tiếp tục tu luyện.
"Không cần quấy rầy ta, ta muốn tu luyện một khoảng thời gian."
Nguyễn Anh để lại một con hạc giấy trước cửa, sau đó đi đến động phủ đặc biệt dành riêng cho cô – nơi linh khí dồi dào – để bắt đầu tu luyện.
Quả đúng như trước đây từng nhận thấy, cảnh giới của Nguyễn Anh không ổn định. Sau khi đột phá Kim Đan, cô vội vàng tháo bỏ trận pháp phong ấn mà Nguyễn Kiệt để lại.
Nhưng khi không còn áp lực từ ngoại cảnh, ý chí tu luyện của cô lại mạnh mẽ hơn trước.
Nguyễn Anh không phải kẻ phản nghịch bẩm sinh, nhưng nếu xung quanh mọi người liên tục nhắc nhở rằng: “Con phải tu luyện chăm chỉ,” “Con có thiên phú như vậy không thể lãng phí,” “Con là ai đó, sao có thể lười biếng như vậy?” – thì khó tránh khỏi việc cô cảm thấy phản cảm.
Khi Quý Thuần Như còn ở Kiếm Tông, bà đã giúp cô con gái nhỏ chắn bớt những áp lực này, thậm chí tranh cãi với Nguyễn Kiệt về cách dạy con.
Nhưng sau khi Quý Thuần Như rời đi, Nguyễn Anh phải đối mặt với những lời nhắc nhở và can thiệp ngày càng nhiều.
Nếu không nhờ một lần tình cờ gặp được một mỹ nam tử trong những năm thơ ấu – sau này Nguyễn Anh mới biết đó chính là chưởng môn Kiếm Tông, nhưng khi ấy người này tự xưng chỉ là một đệ tử nhập môn mới – cô có lẽ đã không thoát khỏi những áp lực đó.
Hai người đã phát triển một tình bạn kỳ lạ vượt qua khoảng cách tuổi tác.
Nguyễn Anh khi đó, với tính cách vô tư của trẻ con, còn chưa khôi phục ký ức kiếp trước, đã thẳng thắn bày tỏ sự bất mãn về việc phải "mất đi tuổi thơ" và bị thúc ép tu luyện sớm.
Dưới sự khéo léo dẫn dắt của chưởng môn họ Phương – người mà cô gọi là "Phương hồ ly" – cô bé không hề đề phòng mà trút hết những bức xúc không dám nói với ai khác.
Kể từ đó, những tình huống tương tự giảm hẳn. Hiếm ai còn dám can thiệp hay phê bình cô. Ngay cả Nguyễn Kiệt cũng nới lỏng cách quản lý, không còn ép cô phải chịu những rèn luyện khắc nghiệt từ khi còn nhỏ.
Dẫu vậy, Nguyễn Anh vẫn hiểu rằng, bất kể là Nguyễn Kiệt hay các trưởng lão, họ đều xuất phát từ sự quan tâm, mong muốn cô trở nên mạnh mẽ hơn.
Nhưng bản thân cô biết, con đường đó không phù hợp với mình. Cô không có khát vọng mãnh liệt đối với đại đạo như họ.
Trong những ngày tu luyện này, Nguyễn Anh tranh thủ sắp xếp lại ký ức từ hai kiếp của mình.
Dù nhiều chi tiết trong nguyên tác đã phai nhạt, nhưng cô rất rõ về chính bản thân mình. Cô ôn lại hơn bốn mươi năm ký ức, cảm nhận sâu sắc hơn những bài học từ thời gian.
Linh khí xung quanh như một cơn lốc xoáy, lấy Nguyễn Anh làm trung tâm, không ngừng tụ về phía cô.
Với thể chất Lưu Ly Tịnh Thể, cô không cần lo lắng về tạp chất. Người khác dù hấp thụ linh khí hay làm gì cũng có thể để lại tạp chất trong cơ thể, nhưng Nguyễn Anh thì không. Cô thậm chí có thể thoải mái ăn thức ăn của người phàm.
Dù vậy, những món ăn không có linh khí chẳng khác gì “vô dinh dưỡng” đối với tu sĩ. Nhưng đối với Nguyễn Anh, đồ ăn của người phàm lại phong phú và ngon miệng.
Nhân gian tuy ngắn ngủi nhưng luôn rực rỡ và đa dạng.
Luồng khí xoáy này duy trì suốt mấy ngày. May mắn thay, Nguyễn Anh đã uống đan dược Tích Cốc từ trước, cộng thêm trận pháp trong động phủ và tài nguyên phong phú, mọi thứ đều hỗ trợ cô rất tốt.
Năm ngày sau, Nguyễn Anh mở mắt.
Có lẽ vì hồi tưởng lại quá khứ, tâm cảnh của cô đã được nâng lên một bậc. Lần này, quá trình tu luyện đạt hiệu quả rất tốt, cuối cùng cô đã củng cố được cảnh giới. Kinh nghiệm trong những trận chiến trước đó cũng hòa nhập hoàn toàn vào cơ thể cô.
Tuy nhiên, cô có cảm giác rằng với lượng linh khí cô đã hấp thụ, đáng lẽ cảnh giới của cô phải cao hơn một chút. Theo lý thuyết, trạng thái hiện tại đủ để được coi là một tiểu ngộ đạo.
Nhưng thực tế, cô chỉ vừa vặn củng cố được tu vi.
Nghĩ tới đây, cô không khỏi đưa tay chạm lên bụng, dùng thần thức kiểm tra đan điền của mình.
“Vẫn là Kim Đan màu vàng nhạt…” Cô thầm kinh ngạc. “Số linh khí đó đã đi đâu hết? Hay là ta cảm giác sai?”
Có thể lúc đó cô quá tập trung vào việc hồi tưởng ký ức kiếp trước, trong môi trường an toàn nên không để ý đến luồng linh khí xung quanh. Với thể chất đặc biệt của Lưu Ly Tịnh Thể, linh khí chảy vào cơ thể cô là điều rất bình thường.
“Thôi vậy, luyện kiếm trước đã. Không thì tay mình chắc sẽ mốc mất.”
Nguyễn Anh bắt đầu luyện tập kiếm pháp. Cô cảm thấy mình đã có thể chạm đến tầng thứ ba của Vụ Đạo Kiếm Quyết.
Đầu tiên là lĩnh hội tâm pháp, sau đó quan sát kiếm pháp, và không thể thiếu những bài tập hàng ngày.
Nguyễn Anh chuyên dùng song thủ kiếm, một phong cách kiếm pháp ổn định và phổ biến.
Khác với đao, kiếm thường nhẹ hơn, thiên về kỹ thuật. Đao, với sức nặng và quán tính lớn hơn, cần lực mạnh hơn từ người dùng. Những người dùng đao thường rèn luyện cánh tay bằng cách chặt gỗ cứng hay khiêng đá.
Hiện tại, thể trạng của Nguyễn Anh đã được cải thiện rất nhiều. Tuy cô đủ sức để sử dụng đao, nhưng Vụ Đạo Kiếm Quyết mà cô tu luyện lại nhấn mạnh kỹ thuật và ý kiếm – dùng kiếm ý dẫn dắt kiếm thế, không dựa vào sức mạnh.
Song thủ kiếm mang đến sự ổn định, phù hợp với phong cách kiếm pháp này hơn. Nguyễn Anh không cần phải đuổi theo những phong cách đơn thủ. Cả hai cách đều không có sự vượt trội tuyệt đối.
Những động tác cơ bản của kiếm bao gồm đâm, chém, móc, từ đó phát triển thành các kỹ thuật phức tạp hơn. Đao, ngược lại, tập trung vào những chiêu thức mạnh mẽ, khai sơn phá thạch.
“Phù—”
Sau khi hoàn thành buổi tập kiếm, Nguyễn Anh thở ra một hơi dài, đón lấy khăn từ thị nữ để lau mồ hôi.
“Chúc mừng Nguyễn tiểu thư đã tiến bộ trong tu vi.”
“Cảm ơn.”
Nguyễn Anh đi tắm rửa, thay bộ pháp y mới. Sau khi ngâm mình trong bồn tắm, cô cảm thấy toàn thân thoải mái hơn, tâm trạng cũng phấn khởi.
“Mẹ ta và vị Vương thiếu gia kia thế nào rồi?”
Thị nữ thoáng ngập ngừng, nhưng vẫn thật thà đáp:
“Thấy tiểu thư đang bế quan, trưởng lão không quấy rầy. Trong thời gian đó, trưởng lão nhận lời mời của Vương thiếu gia, hai người đã cùng nhau đi dạo chợ.”
Lại hẹn hò nữa.
Nguyễn Anh nhướn mày, tâm trạng vẫn bình thản.
Xem ra với tốc độ này, Khang An mất đi, khả năng vị thiếu gia họ Vương này "lên chức" rất cao. Có lẽ chẳng mấy chốc sẽ nghe tin hai nhà Vương – Quý liên minh.
“Đúng rồi, trưởng lão dặn nô tỳ đưa ngọc giản này cho tiểu thư. Ngài nói tiểu thư nhìn qua là hiểu.”
Sau khi thị nữ rời đi, Nguyễn Anh nhận lấy ngọc giản, đặt lên trán và dùng thần thức kiểm tra.
Bên trong là Lưu Nguyệt Tâm Kinh – một trong những tâm pháp cốt lõi của Truy Nguyệt Lâu.
Tâm pháp này thực chất không có hiệu quả đặc biệt nào, cũng không mang lại lợi ích trực tiếp cho sức mạnh. Nhưng tác dụng lớn nhất của nó chính là giúp người tu luyện che giấu thể chất và tu vi.
Điều này liên quan mật thiết đến căn cơ pháp môn của Truy Nguyệt Lâu. Một số công pháp đặc biệt chỉ truyền thụ cho nữ tu có yêu cầu nghiêm ngặt về tư chất. Đồng thời, trong quá trình tu luyện, thể chất của người tu hành có thể biến đổi.
Theo thông lệ, bất kể có phải truyền nhân của công pháp đặc biệt hay không, các nữ đệ tử nội môn thuộc dòng chính của Truy Nguyệt Lâu đều phải tu luyện tâm pháp này.
Nguyễn Anh tin rằng việc Quý Thuần Như – một trưởng lão Truy Nguyệt Lâu – cố gắng xoay xở để lấy được tâm pháp này cho một đệ tử Kiếm Tông như cô chắc chắn đã phải bỏ ra rất nhiều công sức và tiêu tốn không ít điểm cống hiến của tông môn.
“Cảm ơn mẹ.” Nguyễn Anh gửi một tin nhắn truyền âm cảm ơn Quý Thuần Như.
Sau khi học xong tâm pháp này, Nguyễn Anh mới chuẩn bị khởi hành đến Hà Cốc Thành.
Cô đã xác định thời gian với Giang Đào. Đến lúc đó, hai người sẽ cùng nhau thăm dò Hồng Thiên Bí Cảnh.
Lời tác giả:
Thiết lập về thần thú là hư cấu, xin đừng so sánh với thực tế.
Kiến thức về đao kiếm được tham khảo từ nhiều nguồn, nhưng có thể chưa hoàn toàn chính xác.