Bọn ông kẹ di chuyển thường gợi lên trong đầu tôi hình ảnh một bầy sói đi săn mồi. Có lúc chúng khiến tôi nhớ tới cảnh đàn mèo lượn lờ.
Tràn qua lối ra vào hành lang, đổ xô vào phòng khách, đám đông cá biệt này mang đặc tính khó ưa của loài sâu bọ. Chúng trưng ra tiến trình lục soát thận trọng nhưng mau lẹ như bầy gián.
Chúng cũng đến với số lượng như gián. Hai mươi, ba mươi, bốn mươi: chúng lúc nhúc chui vào căn phòng, lặng thinh và đen đúa như những cái bóng, nhưng khác với những cái bóng, ông kẹ thoát thân từ bất cứ thực thể nào có thể thả chúng ra.
Ông kẹ tuôn trào tới cánh cửa chính lỏng lẻo, tới những ô cửa sổ phòng khách trát vôi xấu tệ như những đợt sóng bồ hóng cuồn cuộn bay theo gió. Qua khe nứt và kẽ hở, chúng ùa vào nhà trong buổi chiều ngập nắng của Camp’s End.
Chúng vẫn tràn ra khỏi hành lang: năm mươi, sáu mươi, bảy mươi và nhiều nữa. Trước giờ chưa khi nào tôi chạm trán với quá nhiều ông kẹ trong cùng một lúc như thế này.
Tuy ở vị trí đứng trong bếp, tôi không thể nhìn quanh lối ra vào phòng khách và nhìn xuống hành lang, nhưng tôi biết những kẻ xâm nhập này vào nhà từ đâu. Ông kẹ không tự nhiên trồi lên giữa mớ bụi xám ngắt và đống tất nhàu nát dưới gầm giường chưa dọn dẹp của Gã Nấm. Chúng cũng không hiện ra từ tủ quần áo lúc nhúc ông ba bị, từ vòi nước ở phòng tắm hay từ bồn cầu. Chúng tới ngôi nhà qua lối căn phòng tối đen.
Ông kẹ có vẻ háo hức muốn để lại nơi này sau lưng và khám phá thị trấn Pico Mundo cho đến khi một tên trong bọn tách khỏi đám đông chộn rộn. Nó đột ngột dừng lại ngay chính giữa phòng khách.
Trong bếp, tôi thấy không dao kéo, không hóa chất tẩy rửa, không vũ khí nào quen thuộc có thể làm bị thương con quái không thật kia. Tôi nín thở.
Tên ông kẹ đứng lom khom, đôi tay của nó, nếu đó đúng là tay, lòng thòng ngang đầu gối. Đầu cúi thấp, xoay qua lại, nó kiểm tra tỉ mỉ tấm thảm để đánh hơi theo dấu con mồi.
Không kẻ khổng lồ độc ác nào thu mình trong bóng tối che khuất thân hình từ sống mũi trở xuống, mê mẩn mùi máu trẻ con lại trông ra vẻ tà tâm hơn thế.
Ở kẽ hở giữa thanh dọc và cánh cửa, con mắt trái của tôi cảm giác đau nhói. Tính tò mò đã trở thành hai hàm đầy răng cưa của cái ê-tô, kẹp cứng lấy tôi ngay cả khi tôi biết khôn bỏ chạy nước rút.
Khi những tên khác tiếp tục lật giở và xem xét tấm thảm, nữ thần báo oán tìm đến tôi từ hành động cúi xuống của chúng. Vai thẳng đờ. Đầu ngẩng lên, chầm chậm quay trái rồi quay phải.
Tôi hối hận đã dùng dầu gội hương đào, rồi bất chợt tôi ngửi thấy mùi thịt mà luồng khói bám đầy dầu mỡ của vỉ nướng gửi lại trên da và tóc tôi. Một đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh vừa xong việc dễ dàng lưu dấu vết cho sư tử và những thứ tệ hơn.
Tên ông kẹ đen như mực, to lớn, nhưng không có nét gì đặc biệt gợi lên hình ảnh một cái đầu không thấy được hốc mũi, lỗ tai và nếu nó có mắt thì do tôi không thể phân biệt ra. Nó đang sục sạo phòng khách, tìm nơi phát xuất mùi hương hay âm thanh đã cám dỗ sự chú ý của nó.
Sinh vật ấy tỏ ra tập trung vào cảnh cửa dẫn đến bếp. Không có mắt của Samson ở Gaza[16] nhưng nó dò la ra tôi.
[16] Samson, một chiến binh Israel được trời phú cho quyền lực siêu nhiên, bị Delilah, một phụ nữ người Philistine (kẻ địch thời xưa của người Do Thái ở Nam Palestin) dụ dỗ để tiết lộ bí mật về sức mạnh của anh ta. Khi Delilah cạo đi bộ tóc của Samson, những người Philistine đã bắt và chọc mù mắt anh ta. Để trả thù, Samson đã đẩy hai cây cột và làm đổ một ngôi chùa ở Gaza, tự sát cùng hàng ngàn người Philistine.
Tôi học hỏi câu chuyện của Samson ở khía cạnh nào đó, vì anh ta là ví dụ kinh điển của việc số phận đau thương và đen tối có thể xảy đến với những ai được... trời ban cho năng lực.
Đứng thẳng băng, cao hơn tôi, tên ông kẹ hiện là một hình thù bệ vệ, bất chấp bề ngoài mong manh không thật. Tư thế hiên ngang và vẻ ngạo mạn ngẩng cao đầu kia cho thấy tôi với nó chẳng khác gì chuột với báo, nó có sức mạnh đánh chết tôi trong chớp mắt.
Hơi thở dồn nén chất đầy hai lá phổi.
Mong muốn bỏ chạy gần như áp đảo nhưng tôi vẫn đứng chôn chân vì sợ nếu tên ông kẹ kia chưa chắc chắn đã nhìn thấy tôi thì chỉ một chuyển động nhỏ của cánh cửa lò xo cũng khiến nó chạy tới.
Sự trông ngóng mỏi mòn khiến mỗi giây dài như một phút và tôi ngạc nhiên khi thấy bóng ma đó cúi sụp xuống lần nữa rồi chạy nhảy đi xa cùng đàn. Mềm mỏng như dải lụa đen, nó trôi tuột vào giữa khung kính trượt với bầu cửa sổ, len ra ngoài ánh nắng mặt trời.
Tôi thở phào khó nhọc và hớp không khí trong lành, quan sát hai mươi tên ông kẹ cuối cùng tràn qua lối ra vào hành lang.
Khi những linh hồn xấu xa cuối cùng đó rời khỏi sức nóng của sa mạc Mojave, tôi quay lại phòng khách. Thật thận trọng.
Ít nhất một trăm tên vừa đi qua căn phòng này. Rất có thể, còn thêm một nửa chừng ấy nữa.
Bất chấp mọi sự di chuyển rầm rộ, không một trang trong bất kì cuốn tạp chí hay tiểu thuyết lãng mạn nào bị nếp gấp. Chuyến đi của bọn ông kẹ không để lại chút dấu vết nhỏ nhặt nhất trên sợi thảm.
Đứng tại một khung cửa sổ trước nhà, tôi ló mặt ra nhìn bãi cỏ trơ trụi và con đường cháy nắng. Theo những gì tôi có thể xác định thì không tên nào trong đám đông vừa mới rời khỏi nơi đây còn nán lại những ngôi nhà xung quanh.
Sự giá lạnh bất thường trong ngôi nhà nhỏ này đã đi theo bọn ông kẹ. Ánh nắng ban ngày của vùng sa mạc xuyên thủng bốn bức tường mỏng manh đến khi mọi bề mặt trong phòng khách đều rực sáng như vòng dây bếp điện.
Suốt hành trình, tình trạng hỗn loạn của những cái bóng có chủ đích kia không để lại vết bẩn nào trên tường hành lang. Dấu tích mùi dây điện cháy cũng không còn.
Lần thứ ba, tôi bước đến ngưỡng cửa ấy.
Căn phòng tối đen đã biến mất.