Trước khi cha mẹ và ông bà của mình qua đời, Lý Văn Đức sẽ không xuống địa phủ báo danh, cậu muốn ở lại thôn Nam Hà tận mắt nhìn Trương Tài Tuấn chuộc lỗi. Tuy Lý Văn Đức làm hại ba người bị thương tật vĩnh viễn nhưng cũng vừa vặn triệt tiêu hết nhân quả với bọn họ, cậu không công không tội nên bây giờ không muốn đi thì Cố Cửu và Thiệu Dật cũng không ép.
Đợi Lý Văn Đức được chôn cất xong, hai người Cố Cửu lập đàn siêu độ để thanh lọc hết oán khí trên người cậu, giúp cậu được thoải mái hơn một chút.
Sau ngày hôm đó, Trương Tài Tuấn cũng bàn bạc với cha mẹ thu dọn hành lý từ từ, nghỉ ngơi thêm mấy ngày cho khỏe hẳn rồi ra khỏi thôn đi tìm việc. Từ trước đến nay cậu ta ít khi phải lao động cực nhọc, tuy là con nhà nông nhưng được cha mẹ cưng chiều nên ngay cả việc ruộng đồng cũng hầu như không mấy khi động tay đến, nhưng nay đã khác xưa, cậu ta gánh trên lưng trách nhiệm chăm lo cho bốn người lớn tuổi, không thể cứ ngày ngày chơi đùa nhàn nhã như trước kia được nữa.
Chuyện lần này xem như kết thúc tại đây, hai sư huynh đệ thu của nhà họ Trương năm lượng bạc, nghỉ ngơi hồi sức một ngày rồi mới đi. Tuy nhiên hai người chưa rời khỏi thôn Nam Hà ngay, trước đó đã nói sẽ tìm mấy bé sơn mị về nuôi nên họ đi lên ngọn núi phía sau thôn Nam Hà thử một chuyến.
Vạn vật trong núi rừng có linh, có thể sinh ra sinh mệnh, mà loại tinh khí có thể tạo thành sơn mị ngoài khí linh thiêng từ núi rừng ra còn có khí từ cây cối héo rũ hoặc động vật tử vong. Sơn mị rất dễ hình thành nhưng nơi nào có người thường xuyên qua lại thì sẽ không gặp được chúng, bởi vì dương khí trên người của người sống sẽ làm những loại khí hư vô này tiêu biến. Cố Cửu và Thiệu Dật đi sâu vào trong núi mới phát hiện được mấy con sơn mị xúm xít bên cạnh một gốc cây cổ thụ, Cố Cửu đếm thử thì thấy tổng cộng có bốn con.
Bốn con sơn mị đều mới được sinh ra không lâu, chẳng khác gì em bé, bọn chúng thấy có người sống đến thì sợ hãi nhưng cũng tò mò nên vừa co cụm lại vừa nhích đến gần xem thử. Cố Cửu cảm giác lúc mình nhìn bọn chúng thì bọn chúng cũng đang nghiên cứu mình.
“Hai con này được không?” Thiệu Dật chỉ đại hai con trong đó hỏi Cố Cửu.
Cố Cửu không có ý kiến, gật đầu: “Hai con này đi.”
Thiệu Dật tóm lấy hai nhóc con kia để lên bàn tay nhéo nhéo. Hai khối khí màu xám bị người ta bắt rồi nắn bóp một hồi mới bắt đầu biết sợ, uốn éo tới lui trong lòng bàn tay của Thiệu Dật.
Thiệu Dật tiện tay ném hai con sơn mị cho Tiểu Đệ đang nằm trong lòng Cố Cửu. Tiểu Đệ vô cùng thành thạo đớp lấy, thấy hai đứa nhóc giãy giụa thì gừ lên một tiếng hăm dọa, thế là bọn chúng ngoan ngoãn ngay, nằm im bất động luôn.
Việc muốn làm đã thành công mĩ mãn, cả nhóm liền quay trở ra theo đường cũ, nào ngờ bọn họ vừa đi chẳng bao lâu thì hai con sơn mị còn lại liền lúc lắc bay theo. Khi nào Cố Cửu quay đầu nhìn thì bọn chúng dừng lại, nhưng đợi mọi người vừa đi được vài bước thì chúng vẫn tiếp tục lảo đảo bám theo không rời.
Hai con sơn mị cứ đi theo sau như hai cái đuôi nhỏ vậy, dọa cỡ nào cũng không chịu bỏ đi, đến khi sắp ra khỏi rừng Cố Cửu thấy vậy thì mủi lòng, hỏi Thiệu Dật: “Sư huynh, hay là mình dẫn hai đứa nó theo luôn được không?”
Dù sao thì gặp cũng gặp rồi, hai đứa nhóc này cứ đi theo sau bọn họ mãi, nhìn thấy thương quá.
Nhiều thêm hai đứa thì tốn thêm hai phần chi phí, nhưng mà bây giờ hai sư huynh đệ không còn túng tiền như sư phụ ngày xưa nữa, vẫn nuôi nổi hai đứa con nít. Thiệu Dật thấy Cố Cửu mềm lòng cũng liền chiều ý cậu: “Dẫn theo đi.”
Cố Cửu vui vẻ vớt hai đứa nhỏ sang, đến lúc này bọn chúng mới biết sợ bèn giãy giụa muốn chạy, nhưng đã quá muộn, Cố Cửu nhanh tay vo tụi nó lại thành một cục nhét vào tay nải.
Cố Cửu và Thiệu Dật đi xuống núi rồi leo lên xe lừa hướng tới một địa điểm cần thanh lọc. Trong hai đêm nghỉ lại thôn Nam Hà, mấy nhóc người giấy đã đánh dấu xong hết những địa điểm có oán khí gần đây.
Cố Cửu yên vị trên xe, moi hết bốn nhóc sơn mị ra rồi đặt bọn chúng ngồi thành một hàng trước mặt. Bây giờ chắc chắn phải lấy tên cho chúng nó rồi, đang khi Thiệu Dật còn suy nghĩ xem đặt tên gì cho thanh nhã chút thì Cố Cửu đã nhanh chóng chỉ vào từng con một, chọn được bốn cái tên vô cùng hoan hỉ cát tường, lần lượt là: Vượng Tài, Lai Phúc, Hỉ Nhạc, Đa Đa.
Tiền đến phúc đến, vui vẻ nhiều nhiều…
Thiệu Dật vừa nghe mấy cái tên bình dân đến không thể bình dân hơn này liền cạn lời, nhưng lúc Cố Cửu chớp chớp đôi mắt đen láy hỏi hắn tên nghe có hay không hắn vẫn làm trái lương tâm mà gật gù: “Hay lắm, rất êm tai.” (Nhà có nóc =))
Cố Cửu hài lòng cười hì hì, nhưng mà ai ngờ cậu đắc ý chẳng được bao lâu, mới quay sang nói chuyện với Thiệu Dật mấy câu quay lại đã thấy bốn đứa lăn thành một cục trên sàn xe. Cố Cửu nhìn mà nhức cả đầu, bốn đứa nhỏ này giống nhau như đúc, vốn chỉ là một cụm khí bay bay, bây giờ cả cậu và Thiệu Dật đều tạm thời chẳng phân biệt được đứa nào là đứa nào. Mà đừng nói đến hai người Cố Cửu, chính chúng nó còn không nhớ tên mình nữa là.
Cố Cửu gọi thử: “Lai Phúc?”
Bốn đứa nhỏ vẫn trộn thành một cục, ngây thơ ngẩng đầu nhìn Cố Cửu.
Bất ngờ là Tiểu Đệ nãy giờ chỉ nằm bên cạnh thích thú quan sát thấy bốn đứa không nhúc nhích bèn vươn móng xù kéo một đứa trong đám ra.
Cố Cửu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, xem ra Tiểu Đệ không chỉ phân biệt được người giấy mà sơn mị cũng không thành vấn đề với nhóc ta, vậy thì dễ dàng hơn nhiều rồi, sau này gọi đứa nào thì chỉ cần đợi Tiểu Đệ đẩy đứa đó ra, đến khi lớn hơn biết chuyện rồi thì bọn chúng sẽ tự nhớ được tên mình thôi.
Tiếp đó Cố Cửu và Thiệu Dật dẫn theo cả nhà tính luôn bốn thành viên mới chạy tới chạy lui để thanh tẩy oán khí trong nửa tháng, đến lúc bọn họ quay lại quận Thượng Dương thì cổng thành đã mở rồi.
Cố Cửu và Thiệu Dật đi vào thành, trong thành vẫn còn phảng phất mùi thuốc đông y, người dân đi lại trên đường có người đầy vẻ tang thương, có người rạng rỡ vì sống sót sau cơn đại nạn, muôn hình vạn trạng, chỉ có một điểm chung là cứ cách vài bước chân lại thấy một lá cờ trắng treo trên hiên nhà hai bên đường.
Nguy cơ đã được loại bỏ nên nhịp sống trong thành đang dần dần khôi phục lại như trước khi ôn dịch ập tới. Những người còn sống cũng gắng gượng nén đau buồn để sắp xếp tang lễ cho người thân đã qua đời. Tuy lúc đó thi thể của những người bị nhiễm bệnh đều đã bị thiêu hủy hết nhưng nếu có điều kiện thì hình thức vẫn phải làm cho tươm tất.
Đa số các cửa hàng vẫn còn đóng cửa im ỉm, trên đường đi hai người Cố Cửu đi ngang một tiệm bán nhang đèn, bởi vì người cần làm đám tang nhiều nên chỉ có mỗi một cửa hàng này là có người ra vào dập dìu, trông có vẻ náo nhiệt đấy, nhưng lại khiến người ta chạnh lòng.
Các cửa hàng thì đóng nhưng có mấy quán trọ đã mở cửa đón khách trở lại. Cố Cửu và Thiệu Dật chọn đại một nơi trông có vẻ ổn đi vào, cả nhóm đã lang bạt bên ngoài hơn nửa tháng ròng rồi, bây giờ muốn nghỉ ngơi hồi sức hai ngày.
Bên trong quán trọ khá náo nhiệt, đa số khách đến đều là người trong thành, bọn họ như người đã chết qua một lần nên bây giờ muốn sống cho đáng, không tiếc tiêu tiền đi ăn uống, cũng có những người vui vẻ vì tai qua nạn khỏi nên muốn tìm vui, chỗ nào đông đúc ồn ào thì có mặt bọn họ ở đó, cũng có không ít người giống như nhóm Cố Cửu, chỉ đi ngang quận Thượng Dương nên tìm chỗ nghỉ chân rồi tiếp tục hành trình. Những người khách vãng lai này hầu hết đang dỏng tai lên nghe người trong thành kể lại cơn đại nạn mà bọn họ vừa trải qua, thỉnh thoảng lại tấm tắc ra tiếng.
Cố Cửu và Thiệu Dật xếp hành lý vào phòng xong liền xuống dưới sảnh chọn một cái bàn ngồi xuống gọi cơm. Cố Cửu và Thiệu Dật mỗi người ngồi một bên, Tiểu Đệ ngồi ngay bên cạnh Cố Cửu, Lai Phúc và Vượng Tài chiếm một cạnh bàn, Hỉ Nhạc và Đa Đa thì chiếm nốt chỗ còn lại, một cái bàn vừa đủ cho một nhà bảy người.
Nhóm Cố Cửu nghe được rất nhiều lời bàn bạc về những kẻ ác tiếng xấu lan xa đã chết trong trong trận dịch bệnh lần này, trong đó có cả con trai của thái thú quận Thượng Dương là Viên Bác và đám tay chân của gã.
Cố Cửu nghĩ thầm đó là lẽ đương nhiên, khi đó quy luật mà tiểu hòa thượng đã thiết lập là kẻ càng ác thì nhiễm bệnh càng nhanh chết càng mau lẹ mà.
“Cả nhà tên thái thú kia lúc dịch bệnh mới bùng lên thôi đã dẫn theo cả nhà muốn chạy trốn, vứt bỏ bá tánh trong thành. Bọn họ định dẫn đứa con bệnh đến ngáp ngáp kia thoát thân khỏi đây nhưng bị mấy vị quan dưới trướng phát hiện ra ngăn lại. Ai ngờ gã ta đã bị phanh phui chuyện xấu rồi mà còn không biết hối cải, vẫn bày ra kiểu cách nhà quan, không muốn vào khu cách ly chung với người nhiễm bệnh. Hắn ta là quan nên có đặc quyền, giữ rịt con trai bị bệnh ở trong nhà không chịu đưa ra. May mà dịch bệnh sớm qua đi, các quan trên phái người xuống điều ra rõ ngọn ngành bèn nhốt cả nhà thái thú vào ngục, nghe nói là sẽ áp giải về kinh để hoàng thượng đích thân trị tội.”
“Đáng đời!”
“Cẩu quan tham sống sợ chết đáng bị trừng trị!”
Đám đông trong quán ồ lên mồm năm miệng mười khen ngợi loạn xạ.
Người vào quán ăn cơm càng ngày càng nhiều nên trong sảnh sắp không đủ chỗ ngồi, thế là những người quen nhau bắt đầu đến ngồi ghép bàn.
Đột nhiên một người xa lạ bỗng đâu xuất hiện tiến đến trước bàn của Cố Cửu. Người nọ ào ào ngồi xuống đối diện cậu rồi mới hỏi chiếu lệ: “Hai vị huynh đài, cho tôi ngồi ké với.”
Cố Cửu nhìn cái mông bệ vệ của cậu ta đè Lai Phúc và Vượng Tài dẹp lép mà giật giật khóe miệng.
“Này cậu…” Cậu có thể nhích mông qua một chút không?
Thấy nhóc con nhà mình bị đau, Tiểu Đệ vốn đang say sưa ăn thịt gà luộc lập tức nhảy phốc lên bàn nhe răng gầm gừ với người nọ. Nhóc ta há miệng ngoạm lấy hai đứa nhỏ còn đang ngơ ngác đặt sang ngồi cùng với Hỉ Nhạc và Lai Phúc, sau đó tự mình ngồi xuống ngay bên cạnh.
Cố Cửu thở phào cầm chén thịt gà đưa sang cho Tiểu Đệ tiếp tục ăn.
Người vừa đến là một cậu ấm quần là áo lượt, thấy Cố Cửu chỉ gọi một tiếng rồi không thèm để ý đến mình nữa thì hơi cụt hứng. Cậu ta bĩu môi liếc Tiểu Đệ một cái, nói: “Vị huynh đài này cũng không để ý gì hết, người mà ngồi ăn chung với mèo.”
Thiệu Dật lạnh lùng trừng mắt nhìn cậu ta: “Bọn ta vui.”
Tuy rằng ngày thường tên mách lẻo không thuận với mình nhưng lúc cần thì vẫn biết đứng cùng chiến tuyến để đối ngoại, Tiểu Đệ hài lòng không chấp cậu ấm kia nữa, thong thả ngồi xuống ăn, chỉ có điều chỗ ngồi ăn chuyển từ ghế lên bàn.
Chóp chép chóp chép, ăn cho ngươi tức chết luôn.
Cố Cửu nhẹ nhàng nói: “Nếu cậu đây ngại thì tìm bàn khác ngồi đi vậy.”
Cậu ấm cũng muốn tìm bàn khác đấy, nhưng ngặt nỗi nhìn khắp sảnh thì thấy các bàn đều đã kín hết, chẳng còn chỗ nào để ngồi ghép được nữa. Cậu ta bực bội ngồi yên chỗ, nhưng có lẽ người này vốn được cưng chiều, ít khi gặp phải người không thèm nể mặt mình như vậy nên vẫn cáu kỉnh càu nhàu một câu: “Xí, đồ nghèo rách.”
Cố Cửu nghe thấy cúi đầu nhìn Tiểu Đệ đang nhai thịt gà. Nghèo rách hở? Thôi cũng đúng, ai bảo cậu còn phải nuôi nhóc con chứ, nếu không thì tính ra cậu cũng đâu có nghèo, cả kiếp trước cũng được xem là người có của ăn của để đấy.
Tiểu Đệ nghe được lời kia bèn tỏ thái độ ngay, lập tức quay lưng chổng mông về phía với cậu ấm nọ mà ăn cơm.
Cậu ấm này lúc vừa ngồi xuống đã tỏ vẻ sốt ruột rồi, bây giờ lại còn đυ.ng phải nhóm Cố Cửu không nể mặt mình nên sắc mặt càng tệ. Cũng may cho cậu ta là đồ ăn cậu ta gọi còn chưa bưng lên thì Tiểu Đệ đã ăn xong rồi, nhóc cũng không thèm để ý đến cậu ta nữa, ngoan ngoãn nhảy xuống ghế của mình liếʍ mặt liếʍ vuốt cho sạch, đến lúc này cậu ấm mới tỏ vẻ dễ chịu một chút.
Một lát sau đồ ăn cậu ấm gọi được dọn lên, cậu ta mới ăn được vài đũa thì chợt có hai người thở hổn hển chạy vào, cậu ta nhìn thấy bọn họ thì vội vàng nuốt miếng cơm trong miệng xuống, đứng phắt dậy hỏi dồn: “Sao rồi? Tìm được chưa?”
Hai người vừa đến mặc kiểu trang phục của người hầu, gọi cậu ấm là thiếu gia.
“Thiếu gia, bọn tôi đã đi hỏi tất cả các hiệu thuốc trong thành rồi, nhưng mà mới vừa qua cơn dịch bệnh, nhân sâm lâu năm bọn họ đều đã bán hết, không còn đồ chất lượng nữa. Bây giờ phải đợi hàng mới về, mà cũng không biết chắc phải đợi bao lâu, có lẽ phải đi vùng khác tìm thôi.”
Cậu ấm nghe vậy thất vọng vô cùng, cậu ta ngồi phịch xuống tiếp tục ăn, nhưng trông bộ dạng của cậu ta có lẽ ăn cho có vậy thôi chứ chẳng nếm ra được mùi vị gì nữa, hoàn toàn chán chường không màng thế sự.
Nhân sâm lâu năm giá luôn luôn cao, hầu như người ta chỉ mua để dành sẵn bên người phòng trường hợp nguy kịch. Cố Cửu và Thiệu Dật thường xuyên lên núi nên thỉnh thoảng cũng đào được nhân sâm tốt, hai người không bán đi bao giờ, chỉ giữ lại cho mình dùng. Phương Bắc Minh chế ra được nhiều thuốc mỡ tốt như vậy không chỉ nhờ vào y thuật tốt mà còn do có được nhiều thảo dược chất lượng nữa.
Cố Cửu cơm nước no nê thoải mái nên bỗng muốn lo chuyện bao đồng giúp người ta, thế là cậu lên tiếng hỏi: “Cậu tìm nhân sâm à? Tôi có nè, cậu mua không?”
“Mấy người có?” Cậu ấm ngẩng đầu, trên mặt viết rõ ràng hai chữ “không tin”. Cậu ta nhìn Cố Cửu ăn mặc hết sức bình thường một lượt từ trên xuống dưới, giống như đang nói đồ nhà quê như ngươi mà có nhân sâm tốt à?