Vương Uy vô cùng lo lắng, anh đi trên vai tượng chừng hơn trăm mét, rồi từ từ tụt xuống, anh không thể nhìn Nhị Rỗ chết tan xác được, nếu thế thì đâu còn là anh em nữa. Lúc này Dương Hoài Ngọc không biết lấy đâu ra dũng khí, cô ra sức lôi Vương Uy lại, quyết không để anh leo xuống.
Vương Uy nổi điên gầm lên với cô, nhưng Dương Hoài Ngọc chẳng lấy thế làm điều, to tiếng mắng:
-Nhị Rỗ đã chết rồi, từ độ cao này rơi xuống thì tan xương nát thịt là cái chắc, anh tỉnh táo chút đi.
Vương Uy cố vùng ra khỏi tay Dương Hoài Ngọc, nhưng cô bất chấp tất cả cố giữ Vương Uy lại, không hề phòng bị. Đang lúc tức giận, Vương Uy giằng mạnh một cái, Dương Hoài Ngọc không đứng vững, liền đập người vào cổ bức tượng.
Vương Uy chẳng thèm nhìn cô, quay ngoắt đi, tụt xuống dưới. Dương Hoài Ngọc bị va đập mạnh, ê ẩm toàn thân, nhưng lần này cô không hề nổi nóng, chỉ bình tĩnh nhìn Vương Uy tụt xuống mười mấy mét rồi cũng theo xuống. Bức tượng cả ngàn năm tuổi này lên lên đã khó, tụt xuống càng khó hơn. Mắt con người ta ở trên đầu, khó mà trông thấy các mấu, các khe ở dưới, nhất là đang ở dưới lòng đất tối om, nếu không còn lửa đuốc thì xoè bàn tay cũng không thấy ngón, hơn nữa ánh đuốc cũng chỉ soi sáng được lờ mờ dưới chân. Từ trên cao trèo xuống thật vô cùng bất tiện.
Vương Uy từ từ tụt xuống theo hướng rơi nghiêng nghiêng của Nhị Rỗ, Dương Hoài Ngọc chỉ cách Vương Uy hơn chục mét, không nhanh không chậm bám theo. Vương Uy đang đau buồn khôn xiết, vừa tụt xuống vừa không kìm nổi tiếng thét bị thiết. Tiếng thét của anh vang lên trong không gian lặng tờ như chết dưới lòng đất này, nghe càng thêm thê thảm, giống như tiếng gầm của loài dã thú vậy.
Hai người tụt xuống chừng ba chục mét, bỗng Dương Hoài Ngọc ở trên gọi:
-Anh Uy, xem kìa…
Vương Uy dừng lại, nhìn theo tay Dương Hoài Ngọc chỉ, bỗng “ồ” lên một tiếng, chỉ thấy gần đấy hình như có một bệ đá nhô ra, cách Vương Uy chừng bảy, tám mét, anh chỉ thấy được một góc bệ trong sương mù mênh mông, hơn nữa còn hết sức mơ hồ.
Vương Uy chần chừ một thoáng, đoạn lại tụt xuống tiếp, nhìn bộ dạng, Dương Hoài Ngọc đoán anh sẽ tụt cuống tận khu rừng phía dưới, vội gọi:
-Anh nhìn kìa, chưa biết chừng anh Nhị vướng lại ở chỗ kia.
Vương Uy nghĩ cũng có thể, biết đâu Nhị Rỗ người hèn mạng lớn, Diêm vương không chịu nhận, bị vật gì đó móc lại, không chết thì sao? Anh kêu to:
-Đúng đấy, Nhị Rỗ chắc chắn chưa chết đâu, gã ấy tốt số như vậy, đi theo tôi mười mấy năm trời còn không chết, làm gì có chuyện dễ chết thế?
Nói rồi anh từ ngực bức tượng bò qua, vừa bò vừa cao giọng nói:
-Nhị Rỗ tốt số, không chết được đâu, tổ tiên anh ta nghiên cứu thuật phong thuỷ địa nhãn cả năm trăm năm, mộ tổ táng vào nơi đất phát, sao mà đứt nổi mạch phong thuỷ đời đời đơn truyền ấy chứ.
Anh vừa bò vừa nói lớn, lệ nóng trào ra khoé mắt, tí tách nhỏ xuống, người cũng từ từ nhích được đến chỗ đó.
Vương Uy rướn người lên lên tới bệ đá, vừa ngước mắt nhìn, bỗng giật nảy mình. Chỗ này không phải là bệ đá mà là một con đường quanh co, một đầu nối liền với thân bức tượng đất, đầu kia mất hút trong mênh mông sương mù.
Con đường này quanh co ngoằn ngoèo, rộng chừng ba bốn mét, đi trên đó, nếu không gặp phải những chỗ rất dốc, thì về cơ bản, hệt như đi đường trên mặt đất.
Vương Uy leo lên con đường kỳ lạ, nhớ đến Dương Hoài Ngọc còn ở phía trên, bèn cầm đuốc vẫy cô. Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy đột nhiên thay đổi thái độ, cũng vội leo đến.
Dương Hoài Ngọc leo đến chỗ nối giữa con đường với bức tượng đất, Vương Uy liền cúi xuống, kéo cô lên. Anh thấy đầu tóc Dương Hoài Ngọc rối bù, bộ dạng nhếch nhác, đều tại vừa rồi cô cố kéo anh lại không buông, trong khi anh ra sức phản ứng, mới xô xát thành ra như thế. Rất may, cô tây rởm này cũng là người tập võ, lại lớn lên trên biển, khoẻ mạnh hơn những người con khác khác, nếu không e rằng cũng không chịu đựng nổi.
Dương Hoài Ngọc leo lên con đường, liền kinh ngạc há hốc miệng ra. Đây đúng là một con đường rộng rãi, xe quân sự cũng có thể chạy được.
Thấy Dương Hoài Ngọc nghi hoặc nhìn mình, Vương Uy lắc đầu:
-Đành tiến tới xem sao đã, nơi này vô cùng quái dở, chuyện gì cũng có thể xảy ra hết.
Hai người đi trên con đường rộng thênh thang nhưng vẫn rất dè dặt thận trọng. Thảm trạng Nhị Rỗ rơi xuống vừa rồi họ vẫn chưa quên, hơn nữa bên đường không có lan can, mắt chỉ thấy sương mù trắng xoá và bóng tối mênh mông, hễ sơ ý là có thể rơi xuống khu rừng rận hơn nghìn mét dưới kia.
Đi được chừng một trăm mét, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:
-Anh Uy xem kìa, ở kia có ánh đèn…
Vương Uy cũng đã trông thấy trong sương mù có ánh đèn yếu ớt, chập chờn như lửa ma trơi. Tình cảnh này giống hệt lúc họ lên trên chân bức tượng trông thấy ngọn đèn đồng đó, Nhị Rỗ từng bảo ngọn đèn đó rất quái đản, không có người cầm đèn, nhưng vẫn có thể cứ từ từ di động.
Hai người rón rén tiến lại, Vương Uy lòng đầy nghi ngờ, thầm nhủ, phải tìm cho ra nguyên nhân ngọn đèn ma kia tự di động. Hai người từ từ đến gần ánh lửa le lói ấy, nhưng lại thấy quả thực nó chầm chậm đi xa dần. Cả hai trợn trừng mắt lên, bất luận ngọn đèn này tự di động hay có người xách trên tay, thì chỉ riêng việc nó xuất hiện giữa con đường lạ lùng này cũng hết sức đáng sợ rồi.
Con đường không quá dài, chỉ hơn một trăm mét, tận cùng là một bình đài thênh thang. Không thấy hết được chiều rộng và chiều dài của bình đài, nhưng rõ ràng ánh lửa đang ở ngay giữa bình đài. Hai người cầm súng đi về phía ánh lửa, gần đến nơi họ mới dám khẳng định đấy đích xác là một ngọn đèn.
Ngọn đèn phủ đầy gỉ đồng, lơ lửng trên không, to bằng đầu người, phía dưới đáy có tay cầm bằng đồng trông y như một cánh tay, lại rất dài, chìm khuất trong làn sương mù.
Cai đèn được điểu khiển bởi tay cầm bằng đồng, đang không ngừng di chuyển lên xuống, nhìn trong bóng tối tựa như ánh lửa ma trơi vậy. Vương Uy lần theo hướng tay cầm của chiếc đèn mà bước đén, tay cầm dài đến hơn mười mét, nhờ ngọn đuốc xua tan bóng tối, ra đến giữa bệ đá, Vương Uy mới thấy tận cùng của tay cầm là một cái giá bằng sắt, đặt ngang giữa bình đài.
Vương Uy đi vòng quanh cái giá sắt, không nén nổi kinh ngạc, một cái giá sắt to như thế này để làm gì nhỉ? Cái giá sắt này bám đầy gỉ, nằm rạp giữa bình đài, bề ngang bề dọc có đến mười mấy mét, cao bảy tám mét, kỳ lạ nhất là, trên lưng cái giá còn có đôi cánh sắt đang khép lại, nhìn như một con chim vậy.
Chương 11: Chim sắt
Dương Hoài Ngọc vừa nãy còn mải xem xét chiếc đèn bằng đồng, lúc này mới bước đến, nhìn thấy chiếc giá sắt nằm giữa bình đài, cô buột miệng:- Sao cái này nhìn giống máy bay thế nhỉ?
Vương Uy kinh ngạc, máy bay thì anh đã thấy, nhưng nó không giống với thứ này, đây không thể là máy bay được. Dương Hoài Ngọc lại nói:
- Máy bay có nhiều loại, có thể các anh chỉ thấy máy bay chiến đấu, mà cái giá sắt này lại có cấu tạo rất giống tàu lượn thời kỳ đầu. Tàu lượn hồi ấy không có động cơ, hoàn toàn chỉ hoạt động dựa vào năng lượng khi lao từ trên cao xuống mà thôi. Hồi còn nhỏ, tôi sống gần bảo tàng không quân Hoàng gia Anh quốc, từng thấy mô hình tàu lượn ban nhất, nó rất giống với cái giá sắt này.
Vương Uy bước lên trước, sờ tay vào khung thép trên giá, vừa sờ vào tay đã bám đầy gỉ, lớp gỉ này phía trên là gỉ đồng màu xanh, bên dưới là gỉ sắt màu đỏ, có lẽ cái giá sắt này được mạ đồng thau. Cấu tạo của cái giá rất đơn giản, ngoài những khung tam giác l*иg vào nhau, chỉ có đôi cánh sắt đang khép lại trên lưng là tương đối phức tạp mà thôi, thứ này rất khó có thể gọi là máy bay, lại càng khó hình dung nó có thể bay lên trời.