Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành
Vân Tiên khó nỗi làm thinh
Chữ ân đã buộc, chữ tình lây đây
Than rằng: Ðó khéo trêu đây
Ơn kia đã mấy của này rất sang
Gặp nhau đang lúc giữa đàng
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài
Nào ai chịu lấy của ai làm gì.
Thưa rằng: Chút phận nữ nhi
Vốn chưa biết lẽ, có khi mích lòng
Ai dè những đấng anh hùng
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm
Riêng than: Trâm hỡi là trâm
Vô duyên chi bấy, ai cầm mà mơ
Ðưa trâm chàng đã làm ngơ
Thϊếp xin đưa một bài thơ giã từ.
Vân Tiên ngó lại rằng: ừ
Làm thơ cho kịp chừ chừ chờ lâu
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu
Xuống tay liền tả tám câu năm vần
Thơ rồi này thϊếp xin dâng
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào.
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào
Ai dè sức gái tài cao bực này
Ðã mau mà lại thêm hay
Chẳng phen Tạ Nữ, cũng tày Từ Phi
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ
Cho hay tài kém gì tài trai
Như vầy ai nhẫn thua ai
Vân Tiên họa lại một bài trao ra
Xem thơ biết ý xa
Mai hòa vận điệu, điệu hòa vận mai
Có câu xúc cảnh hứng hoài
Ðường xa vòi vọi, dặm dài vơi vơi
Ai ai cũng ở trong trời
Gặp nhau ta đã cạn lời thì thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi
Nguyệt Nga than thở: "Tình ơi là tình!"
Nghĩ mình mà ngán cho mình
Nỗi ân chưa trả, nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương
Dây sầu ai khéo vấn vương vào lòng
Vái cùng Nguyệt Lão hỡi ông
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên
Ðẩy xe cho chị qua miền Hà-Khê
Trải qua dấu thỏ đàng dê
Chim kêu vượn hú, tứ bề nước non
Vái trời cho đặng vuông tròn
Trăm năm cho vẹn lòng son với chàng
Phút đâu đã tới phủ đàng
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi
Hỏi rằng: Nào trẻ tùy nhi
Cớ sao nên nỗi ra đi một mình?
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi dòi cơn
Lao đao phận trẻ chi sờn
No nao trả đặng công ơn chi chàng.
Kiều công nghe nói liền can
Dạy rằng: Con hãy nghỉ an mình vàng
Khi nào cha rãnh việc quan
Cho quân quan đó mời chàng sang đây
Sao sao chẳng kíp thi chầy
Cha nguyền trả đặng ơn này thì thôi
Hữu đường con khá tạm lui
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già.
Tây lầu trống điểm sang ba
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình
Dời chân ra chốn hoa đình
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn
Than rằng: Lưu thụy cao sơn
Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm
Chữ tình càng tưởng càng thâm
Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai
Vơi vơi đất rộng trời dài
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền
Trở vào bèn lấy bút nghiên
Ðặt bàn hương án chúc nguyền thần linh
Làu làu một tấm lòng thành
Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: Ngàn dặm sơn xuyên
Chữ ân để dạ, chữ duyên nhuốm sầu.
Truyện nàng sau hãy còn lâu
Truyện chàng xin kể thứ đầu chép ra
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga
Giữa đường lại gặp người ra kinh kỳ
Xa xem mặt mũi đen sì
Mình cao đồ sộ dị kỳ rất hung
Nhớ câu bình thủy tương phùng
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.
Chẳng hay danh tính là chi
Một mình mang gói ra đi chuyện gì?
Ðáp rằng ta cũng xuống thi
Hớn Minh tính tự, Ô-mi quê nhà.
Vân Tiên biết lẽ chính tà
Hễ người dị tướng ắt là tài cao
Chữ rằng bằng hữu chi giao
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kia nơi võ miếu hầu gần
Ðôi ta vào đó nghỉ chân một hồi.
Cùng nhau bày tỏ tên rồi
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường
Hớn Minh đi trước tựu trường
Vân Tiên còn hãy hồi hương thăm nhà.
Mừng rằng: Nay con thấy ta
Cha già những tưởng, mẹ già những trông
Bấy lâu đèn sách gia công
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
Chẳng hơn người cổ cũng bằng người câm (kim)
Dám xin cha mẹ yên tâm
Ðặng con trả nợ thanh khâm cho rồi
Mẹ cha thấy nói thêm vui
Lại lo non nước xa xôi nghìn trùng
Cho theo một gã tiểu đồng
Viết một bức dặn cùng Vân Tiên
Xưa đà định chữ lương duyên
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang
Con người là Võ Thệ Loan
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà
Chữ rằng Hồ Việt nhất gia
Con đi tới đó trao qua thư này
Con dầu bước đặng thanh mây
Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng
Song thân dạy bảo vừa xong
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân
Ra đi tách dặm băng chừng
Gió Nam rày đã đưa xuân qua hè
Lại xem dặm liễu đường hòe
Tin ong ngơ ngác, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non này
Nước sao sóng dợn, non vầy đà cao
Màn trời gấm trải biết bao
Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười
Quận thành nhắm kiểng coi người
Kiểng xinh như vẽ, người tươi như giồi
Hàn-Giang phút đã tới nơi
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thư.
Võ công lấy đọc bây giờ
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền
Liếc coi tường mạo Vân Tiên
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con
Mày tằm, mắt phụng, môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân
Những e kẻ Tấn người Tần
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai
Nhắm đà đẹp đẽ hòa hai
Kìa dâu nam giản, nọ trai đông sàng
Công rằng: Ngãi tế mới sang
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà.
Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia
Ðại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì
Công rằng: Con dốc xuống thi
Sao không kết bạn mà đi tựu trường
Gần đây có một họ Vương
Tên là Tứ Trực văn chương tốt đời
Cha đà sang trẻ qua mời
Ðặng con cùng gã thử chơi một bài
365. Thấp cao, cao thấp biết tài
Vầy sau trước (trúc) bạn cùng mai mới màu.
Phút đầu Tử Trực tới hầu
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: Này bớ hai con
Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên
Lấy câu "bình thủy hữu duyên" làm đề.
Song song hai gã giao kề
Lục, Vương hai họ đua nghề một khi
Cho hay kỳ lại gặp kỳ
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành
Công rằng: Ðơn quế hai nhành
Bảng vàng, thẻ bạc đã đành làm nêu
Như chuông chẳng đánh sao kêu
Ngọn đèn rạng tỏ trước khêu bởi mình
Thiệt trang lương đống đã đành
Khá khen hai họ tài lành hòa hai.
Trực rằng: Tiên vốn cao tài
Dám đâu én hộc sánh vai một bầy
Tình cờ mà gặp nhau đây
Trực này xin nhượng Tiên rày làm anh
Nay đà nên nghĩa đệ huynh
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau.
Xảy đâu trăng đã đứng đầu
Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng
Ðêm khuya dạy bảo Thể Loan mọi lời
Ngày mai vừa rạng chân trời
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình
Gọi là chút nghĩa tống tình
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau,
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu
Vân Tiên vào tạ dây lâu xuất hành.
Ra đi từ thuở bình minh