Lão Đại Là Nữ Lang

Chương 40

Chương 34: Ra ngoài
Hai ngày sau, thuyền khởi hành theo kế hoạch.

Phó Nguyệt áp dụng biện pháp Phó Quế dạy,

đi

tìm Phó tứ lão gia làm nũng.

Con

gái

lớn từ trước đến nay ít

nói, chẳng mấy khi xin cha cái gì nên Phó tứ lão gia cũng

không

nỡ từ chối, quyết định

không

chỉ Phó Nguyệt và Phó Quế được theo ông tới phủ Võ Xương ngay cả Phó Vân Khải và Phó Vân Thái vốn

đang

bị phạt sau lần gây họa hôm trước cũng được phép

đi.

Hai tên nhóc mừng phát điên, vừa nghe được tin này

đã

vội vàng thúc giục nha hoàn chuẩn bị đồ đạc.

Cứ như thể vừa uống thuốc tiên, Phó Vân Khải khỏi bệnh ngay lập tức.

Đại Ngô thị và Lư thị cũng đoán ra

hắn

giả bệnh nhưng cũng

không

vạch trần, chỉ nhắc nhở ma ma nhớ mang theo thuốc mỡ để bôi thêm cho

hắn.

Ngày xuất phát, thời tiết đẹp, sau khi ăn sáng và chào từ biệt người nhà xong, Phó tứ lão gia dẫn các con các cháu lên thuyền.

Phó Vân Chương

đã

tới từ trước, khi đó

đang

ngồi sau bàn trong khoang thuyền đọc tập văn mẫu, nghe thấy tiếng cười

nói

vọng lại mới lên boong

nói

chuyện với Phó tứ lão gia.

Sau mấy câu chào hỏi và hỏi thăm sức khỏe, Phó Vân Chương ra lệnh xuất phát.

Phó gia lần này có

một

chiếc thuyền lớn, ba chiếc thuyền nhỡ, bốn chiếc thuyền

nhỏ, tổng cộng tám chiếc thuyền cùng nhau thuận gió giương buồm, hướng về phía lòng sông rộng lớn,

đi

thẳng về phía bắc

Giờ

đã

là cuối hạ, hai bên bờ sông, lau sậy trải dài, có những khúc dài tới mười dặm

không

dứt. Xa xa là những dãy núi nhấp nhô, dáng hình núi đá

hiện

lên



ràng dưới ánh sáng mặt trời xán lạn, trông như

một

bức tranh thủy mặc cực lớn mà trong đó trời cao vạn dặm cũng chỉ là

một

mảnh giấy trắng.

Non xanh nước biếc, cảnh đẹp đến nao lòng.

Phó Nguyệt và Phó Quế

nói

cho cùng tuổi vẫn còn

nhỏ, lần đầu tiên

đi

chơi xa mà

không

có Lư thị

đi

cùng nên cực kỳ kích động, nhìn cái gì cũng thấy thú vị, bám lấy Phó tứ lão gia hỏi han hết cái này đến cái khác.

Phó tứ lão gia gật đầu mỉm cười, kiên nhẫn kể cho hai người nghe về những chuyện ông từng tai nghe mắt thấy, bờ sông này, dãy núi kia, sơn cốc tĩnh mịch nọ, kể cho họ nghe về nguồn gốc tên gọi của châu chuyện, thôn trang, chùa chiền

trên

núi. Thi thoảng ông còn kể mấy câu chuyện cười vô thưởng vô phạt, Phó Nguyệt, Phó Quế và Phó Vân Khải, Phó Vân Thái đều bị lôi cuốn, tiếng cười vang lên

không

ngớt.

Phó Vân

anh

mới lành bệnh chưa lâu, Phó tứ lão gia lo nàng

không

chịu nổi

đi

lại vất vả,

không

cho nàng ở bên ngoài quá lâu, giục nàng vào khoang nghỉ ngơi.

Nàng vâng

một

tiếng rồi xoay người trở về khoang thuyền. Khi trước

đi

từ Cam Châu về Hồ Quảng mất cả mấy tháng, màn trời chiếu đất,

đi

lại mệt nhọc, dù là ngồi xe hay ngồi thuyền nàng cũng

đã

kinh qua cả.

Đối với Phương Tuế và Chu Viêm, đây lại là lần đầu tiên họ được

đi

một

chiếc thuyền lớn như thế nên say sưa ngắm nhìn cảnh vật hai bên bờ sông. Tuy vậy, thấy nàng đứng dậy, hai nha hoàn vẫn

không

hề do dự, theo chân nàng xuống khoang thuyền.

đi

ngang qua khoang của Phó Vân Chương, Phó Vân

anh

dừng bước, gõ cửa: "Nhị ca?"

Bên trong phát ra tiếng lạch cạch, Liên Xác mở cửa, tươi cười mời nàng và nha hoàn vào trong.

"Sao lại xuống đây thế này?"

Phó Vân Chương

không

ngẩng đầu lên, tay cầm bút,

đang

ghi chú bên lề tập văn mẫu, mỉm cười hỏi.

"Tứ thúc bảo muội vừa lành bệnh,

không

được bêu nắng."

Phó Vân

anh

đi

tới bên cạnh bàn, bám vào cạnh bàn kiễng chân đọc chữ ghi

trên

tập văn mẫu,

trên

đó chắc chắn có tên và quê quán tác giả, hóa ra Phó Vân Chương

đang

đọc bài thi Đề đốc Học chính Diêu Văn Đạt từng viết năm ông ta đỗ Trạng nguyên.

Đề bài là "Quân tử hiền kì hiền nhi thân kì thân" trích trong đoạn: "Thi vân: "Ô hô, tiền vương bất vong." Quân tử hiền kì hiền nhi thân kì thân, tiểu nhân nhạc kì nhạc nhi lợi kì lợi. Thử dĩ nhất thế bất vong dã." trong sách "Đại Học". [1]

[1] Dịch nghĩa: Kinh thi

nói

"Hỡi ô! Những bậc vua đời trước, người ta

không

quên". Người quân tử ca ngợi các thánh vương đời trước tôn trọng những người hiền,

yêu

mến người thân của mình; kẻ tiểu nhân (cũng nhờ công đức của thánh vương đời trước) mà được vui hưởng niềm vui, được thụ hưởng điều lợi, vì thế người ta đời đời

không

quên. (Bản dịch nghĩa lấy từ sách Đại Học của dịch giả Phan Văn Các)


Đề bài loại văn giải đề này nhất thiết phải được trích từ Tứ thư Ngũ kinh.

Bởi vậy, khi học sinh làm loại văn này, khi giải thích cũng chỉ có thể căn cứ vào cách chú giải của Chu Hi hoặc các học giả theo trường phái lý học khác,

không

thể tự phát triển giải thích của bản thân. Hơn nữa, ngay cả đoạn đứng ở vị trí của bậc thánh nhân để giải thích cũng phải dùng ngôi thứ nhất.

Viết loại văn này cần tuân thủ nghiêm khắc cấu trúc của bài, đầu tiên là phần mở đầu, hay còn gọi là phá đề, thừa đề, khởi giảng.

Khởi đầu là phá đề, dùng hai ba câu giới thiệu và giải thích ý nghĩa của đề bài.

Tiếp theo đó là thừa đề, trong vòng ba câu phải thuyết minh, bổ sung, mở rộng ý nghĩa của đề bài.

Nguyên đề nêu



mục đích của đề bài.

Sau đó là

một

đoạn khởi giảng, bắt đầu

đi

vào trình bày và phân tích đề mục, đưa ra những góc nhìn và chú giải của tiền nhân về vấn đề này, từ đó dẫn vào phần chính.

Tiếp nữa mới là phần chính của bài văn,

đi

sâu vào việc trình bày và phân tích quan điểm của mình về đề bài. Phần chính này bao gồm bốn đoạn, mỗi đoạn hai vế song song đối nhau. Bốn đoạn này gồm có: đề cổ (hay còn gọi là khởi cổ), trung cổ, hậu cổ, thúc cổ. Mỗi phần lại có hai vế gọi là xuất cổ và đối cổ, đối ngẫu nghiêm ngặt, khai, thừa, chuyển, hợp, cấu trúc phải đăng đối cả về bằng trắc và về ngữ nghĩa, bài văn có tổng cộng tám vế nên mới gọi loại văn này "bát cổ văn".

Phần cuối cùng gọi là tiểu kết, dùng để tổng kết, khái quát lại ý nghĩa của toàn bài. Tiểu kết có thể nhắc lại hoặc mở rộng ý nghĩa của đề bài.

Bát cổ văn có cấu trúc



ràng, được chia thành các đoạn như sau:

Phá đề: Giải nghĩa đề, thuyết minh chủ đề, ba đến bốn câu.

Thừa đề: Mở rộng ý nghĩa của đề, dùng để chuyển tiếp, ba đến bốn câu.

Nguyên đề: Chỉ ra nguyên nhân, mục đích thánh nhân đề cập đến câu trích được nêu trong đề, năm đến sáu câu.

Đoạn khởi giảng: Đặt mình vào vị trí của bậc thánh hiền để giảng giải, thuyết minh ý nghĩa của đề, bảy đến tám câu.

Đề cổ, vế xuất cổ: Khoảng sáu câu.

Đề cổ, vế đối cổ: Có cấu trúc đối ngẫu với vế trước.

Trung cổ, vế xuất cổ: Phần nghị luận trung tâm của bài văn, khoảng bảy đến tám câu, trường hợp dài nhất có khi lên tới hơn hai mươi câu.

Trung cổ, vế đối cổ: Có cấu trúc đối ngẫu với vế trước.

Hậu cổ, vế xuất cổ: Nếu trung cổ dài

thì

hậu cổ ngắn, trung cổ ngắn

thì

hậu cổ phải dài. Tổng kết ý nghĩa toàn đề.

Hậu cổ, vế đối cổ: Có cấu trúc đối ngẫu với vế trước

Thúc cổ, vế xuất cổ: Nhấn mạnh lại phần trung cổ, bổ sung cho phần hậu cổ, khoảng năm câu,

không

vượt quá tam câu.

Thúc cổ, vế đối cổ: Có cấu trúc đối ngẫu với vế trước.

Tiểu kết.

Toàn bộ đoạn trích chứa câu "Quân tử hiền kì hiền" này

nói

về Chu Văn Vương làm cho người ta

không

thể nào quên, ông tôn kính trọng dụng người hiền tài, quan tâm đến những người xung quanh, dân chúng bởi vậy nên đều vui mừng, được hưởng lợi từ những quyết sách của ông, đây là chính là nguyên nhân nhân khiến người người cả đời

không

quên ơn Chu Văn Vương.

"Tứ thư tập chú"

đã

có chú giải cho những câu này như sau: "Bậc quân đời trước cốt tại tân dân, chỉ ư chí thiện, có thể khiến thiên hạ đời sau, như

một

lẽ dĩ nhiên, ghi nhớ đời đời,

không

bởi chuyện

đã

qua từ lâu mà quên được." [2]

[2] Ba cương lĩnh của Đại học bao gồm: Minh minh đức (làm sáng cái đức sáng của chính mình), Tân dân (làm mới cho dân, theo Chu Hi, "tân tức là bỏ cái cũ, ý

nói

đã

tự mình làm sáng tỏ cái đức sáng của mình, lại phải nên suy ra đến người khác, khiến họ cũng có thể bỏ được vết nhơ nhiễm phải từ trước"), Chỉ ư chí thiện (an trụ ở nơi chí thiện, chí thiện là đạo đức hoàn mỹ, "là tột đỉnh của cái lý đương nhiên, cái lẽ việc phải như vậy"). Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục: cách vật (tiếp nhận và nhận thức

sự

vật), tri trí (đạt tri thức về

sự

vật), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm, làm cho tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình), tề gia (sắp xếp mọi việc cho gia đình hài hòa), trị quốc (khiến cho nước được an trị), bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ được yên bình). Trong đó, minh minh đức ứng với cách vật, tri trí, thành ý, chính tâm và tu thân; tân dân ứng với tề gia và trị quốc; chỉ ư chí thiện ứng với bình thiên hạ. (Tổng hợp từ Đại học, bản dịch của Phan Văn Các và wikipedia). Ở đây

nói

về bậc quân vương nên cũng tập trung vào tân dân (trị quốc) và chỉ ư chí thiện (bình thiên hạ).


Bài văn của Diêu Văn đạt dùng ý chú giải này để phá đề "Dựa vào

sự

ghi nhớ của người đời sau mà hiểu được cái đức tân dân của bậc quân vương đời trước. Lời này

đã

nói

lên vai trò của tân dân trong chỉ ư chí thiện", chỉ

một

câu

đã

giải thích được ý nghĩa của đề bài, lấy "chí thiện" làm trung tâm để lý giải.

Bài viết đơn giản



ràng, súc tính, cách phá đề vừa tinh tế lại vừa chuẩn xác.

Trong bài viết có nhiều trích dẫn trong "Tứ thư tập chú", sắp xếp hợp lý, luận chứng quan điểm



ràng, cuối cùng lấy câu "không

bởi chuyện

đã

qua từ lâu mà quên được" từng được nhắc đến ở đoạn đầu, áp dụng phương thức đầu cuối tương ứng để chốt lại toàn bài.

nói

tóm lại, văn giải đề của Diêu Văn Đạt tuy dùng nhiều trích dẫn nguyên văn nhưng lại hoàn toàn

không

tạo cảm giác bị rập khuôn, gò ép mà hoài cổ thanh nhã, câu chữ ngắn gọn, sử dụng linh hoạt trích dẫn về chú giải và chú thích kinh thư thể

hiện

ông ta thấu hiển những kinh thư của cổ nhân.

Đây là

một

tác phẩm xuất sắc hiếm có.

Năm ấy bài viết này được các quan chỉ khảo nhất trí cho điểm cao, sau tới thi đình, ông ta đối đáp trôi chảy nên đỗ Trạng nguyên.

Đáng tiếc ông ta lại

không

được may mắn cho lắm, bị Thám hoa Thôi Nam Hiên cướp mất

sự

chú ý của Tiên đế, về sau con đường làm quan cũng

không

thông thuận.

oOo

"Muội cảm thấy bài văn giải đề này thế nào?"

Qua khóe mắt, Phó Vân Chương nhìn thấy Phó Vân

anh

đang

đứng cạnh mình, mắt nhìn chằm chằm tập văn mẫu, mày nơi nhíu, có vẻ như

đang

nghiêm túc suy nghĩ cái gì nên hỏi.

"Văn của Trạng nguyên đương nhiên là phải hay rồi."

Phó Vân

anh

thuận miệng đáp.

"Muội nghe Khổng tứ ca

nói, Diêu học đài là Trạng nguyên."

Nàng tự nhiên nhớ ra, mặt

không

đổi sắc, bổ sung

một

câu.

Phó Vân Chương nhướn mày nhưng cũng

không

hỏi tiếp nữa.

"Nhị ca, lần này

đi

phủ Võ Xương, có phải huynh định

đi

bái phỏng Diêu học đài

không?"

"Ừ."

Phó Vân Chương gật đầu,

một

lát sau lại cười, "Trước đây ta cũng

đã

từng gặp Diêu học đài."

Phó Vân

anh

hơi nhướn mày, nhìn ngắm Phó Vân Chương

một

hồi, lòng chợt hiểu ra.

Thảo nào Diêu Văn Đạt năm lần bảy lượt châm chọc, làm Phó Vân Chương khó xử, hóa ra là vậy. Cả đời này người Diêu Văn Đạt hận nhất chắc chắn là Thôi Nam Hiên. Phó Văn Chương tuổi trẻ tuấn tú, còn trẻ như thế mà

đã

đỗ cử nhân. Diêu Văn Đạt tuổi già sức yếu,

đi

còn phải chống gậy, nhìn thấy y vẫn chưa đến tuổi trưởng thành mà

đã

có danh tiếng, khí độ tao nhã thong dong, lại còn

nói

giọng Hồ Quảng, làm sao có thể

không

giật mình nhớ tới Thôi Nam Hiên.

không

phải Phó Vân Chương viết văn

không

tốt mà là bị tai bay vạ gió.

Nàng trầm ngâm

một

lúc rồi từ từ

nói: "Nhị ca, Khổng tứ ca

nói

Diêu học đài và Lễ Bộ thị lang Thôi đại nhân như nước với lửa, khi nào huynh gặp Diêu học đài, huynh nhớ tỏ ra mình

không

liên quan gì đến Thôi đại nhân,

nói

không

chừng Diêu học đài

sẽ

không

soi mói huynh nữa."

Khi

nói

ra mấy chữ "Thôi đại nhân", nàng

không

ngập ngừng, mấy chữ ấy tựa như sương sớm lăn

trên

lá cỏ, vụt qua đầu lưỡi nàng, trôi chảy đến

không

ngờ.

Phó Vân Chương đưa tay xoa đầu nàng, "Khổng tứ còn dạy muội cơ à?"

Khổng tú tài là người biết người biết ta, với khả năng của

hắn, thi hương thêm vài lần nữa có khi cũng

sẽ

có ngày may mắn có được cái danh cử nhân nhưng mà cũng chỉ đến thế thôi. Nhà

hắn

cũng

không

phải giàu có gì,

không

có khả năng chi tiền cho

hắn

thi tiếp, thế là

hắn

quyết định từ bỏ con đường làm quan, tập trung tìm hiểu chuyện xã giao chốn quan trường.

Phó Vân

anh

đoán mục tiêu của Khổng tú tài rất có thể là trở thành môn khách của Phó Vân Chương trong tương lai.

Đối với tiến sĩ, chuyện tuyển chọn quan có quy định nghiêm ngặt về hộ tịch,

không

thể về quê làm quan, bắt buộc phải

đi

vùng khác nhậm chức. Cường long bất áp địa đầu xà [3], vậy nên khi những vị quan này tới

một

địa phương mới, đa phần

sẽ

đưa theo môn khách phụ tá mình tín nhiệm, những người này thường là đồng hương với vị quan kia nên thân thiết hơn nhiều, cũng

sẽ

được vị quan kia nể trọng hơn nhiều so với phụ tá ở địa phương mới.

[3] Rồng dẫu có mạnh cũng chưa chắc

đã

thắng được đám rắn tại hang ổ của nó. Tiếng Việt có nhiều câu tương tự nhưng

không

có câu nào hoàn toàn đồng nghĩa.


Khổng tú tài thường xuyên giúp Phó Vân Chương xử lý mấy việc xã giao, lo lắng trước sau, là người chịu khó hỏi thăm tin tức, liên lạc

trên

dưới, giao hảo với học quan, thầy dạy, thực tế

đã

là môn khách đầu tiên của Phó Vân Chương rồi.

hắn

biết mình

không

thể làm quan nên cũng

không

phải sống gò ép,

không

nhìn Phó Vân

anh

bằng ánh mắt khác thường.

Có vài lần

hắn

đến Lâm Lang Sơn Phòng mượn sách, Liên Xác và mấy nha hoàn đều

không

biết chữ nên

không

biết sách

hắn

muốn mượn nằm chỗ nào, tìm mãi vẫn

không

thấy. Phó Vân

anh

từng sắp xếp lại thư phòng cho Phó Vân Chương nên

không

cần nghĩ cũng biết cuốn sách đó ở đâu.

Khổng tú tài thấy thế liền trêu chọc nàng, đố nàng đọc thuộc lòng Tứ thư rồi phát

hiện

ra nàng có thể đọc được

thật

nên vô cùng kinh ngạc. Từ đó,

hắn

không

còn dùng giọng điệu dỗ dành trẻ con để

nói

chuyện với nàng nữa.

Khổng tú tài kể cho nàng nghe rất nhiều tin đồn ở chốn quan trường.

Nào là họ hàng nhà Thẩm các lão làm xằng làm bậy, quan viên địa phương muốn lấy lòng Thẩm các lão nên ra sức bao che, bị ngôn quan dâng tấu lên Hoàng thượng, cuối cùng người nhà Thẩm các lão vẫn chẳng làm sao, ngôn quan kia lại bị bãi miễn.

Nào là Diêu học đài lòng dạ hẹp hòi, thù dai như đỉa. Mấy chục năm trước ở quê có

một

vị hương lão đắc tội với ông ta. Ngày ông ta về quê tế tổ sau khi đỗ Trạng nguyên, tri huyện địa phương, tộc lão và con cháu Diêu gia tổng cộng mấy trăm người tụ tập

trên

đường lớn dẫn vào huyện, chờ suốt cả buổi dưới ngày trời nắng, chờ đến đầu váng mắt hoa nhưng cũng

không

thấy Trạng nguyên đâu. Sau khi tìm người nghe ngóng họ mới vỡ lẽ ra Trạng nguyên

đã

sai tiểu tốt đổi sang

đi

đường khác, nhất nhất phải

đi

qua mộ cái vị hương lão

đã

chết từ hai mươi mấy năm trước kia khua chiêng gõ trống diễu vài vòng để cho vị hương lão đó biết Diên Văn Đạt đỗ Trạng nguyên rồi đây này!

...

Những chuyện như thế, Phó Vân

anh

đã

nghe nhiều rồi.

"Ai dạy mà chẳng được, dùng được là được rồi."

Thấy Phó Vân Chương

đã

dừng bút, Phó Vân

anh

đi

tới bên cửa sổ rót

một

ly trà hồ đào bưng qua cho y, chậm rãi

nói.

thật

ra chỉ cần Phó Vân Chương

nói

xấu Thôi Nam Hiên mấy câu trước mặt Diêu Văn Đạt là ổn nhưng tính cách Phó Vân Chương như thế, chắc

không

nói

xấu sau lưng người ta được.

Nhất là y còn rất tôn trọng Thôi Nam Hiên. Lúc nàng dọn dẹp thư phòng cho y còn nhìn thấy

một

tập văn của Thôi Nam Hiên.

"Diêu học đài tuy

không

xấu nhưng lại quá cố chấp. Ông ta thấy ta thế nào là chuyện của ông ta, ép buộc quá có để làm gì đâu."

Phó Vân Chương nhấp

một

ngụm trà, cười nhàn nhạt, "Tùy ông ta

đi."

Phó Vân

anh

cũng đoán được y

sẽ

trả lời như vậy, nhìn y có vẻ ôn hòa nhưng bản chất bên trong lại ngang ngạnh.

Nang suy nghị

một

hồi, lại hỏi: "Nhị ca, Diêu học đài là người Nam Trực Lệ, ông ta có phải đời sau của Diêu Quảng Hiếu

không?"

Diêu Quảng Hiếu, từ thưở thiếu niên

đã

xuất gia, pháp danh Đạo Diễn, Thành Tổ ban cho tên là Quảng Hiếu, phụ tá Thành Tổ dành được chiến thắng trong chiến dịch Tĩnh Nạn, nhờ đó đoạt được ngôi vị hoàng đế nên rất được Thành Tổ tín nhiệm, có "Đào hư tử tập" lưu truyền hậu thế.

"Diêu Quảng Hiếu?" Phó Vân Chương sửng sốt, kiên nhẫn giải thích với nàng: "Diêu Quảng Hiếu là người Nam Trực Lệ, phủ Tô Châu, quê Diêu học đài cũng ở Nam Trực Lệ nhưng lại cách phủ Tô Châu mấy trăm dặm,

không

phải cùng tộc với Diêu Quảng Hiếu."

Phó Vân

anh

vẫn tiếp: "Nhưng mà Khổng tứ ca lại

nói

với muội Diêu học đài vẫn thường tự nhận mình là người trong tộc Diêu Quảng Hiếu."

"Diêu gia là tộc lớn, đông người, trải ra nhiều nơi nên Diêu học đài mới có thể

nói

như thế, cũng

không

thể nào chắc chắn là cùng chi với Diêu gia ở phủ Tô Châu. Ví dụ như

một

người họ Vương

nói

mình vốn có nguồn gốc là tộc Vương thị ở Thái Nguyên, chắc gì

đã

là người Thái Nguyên." Phó Vân Chương đặt chén trà xuống

nói.

Phó Vân

anh

im lặng để y

nói

hết lời, lơ đãng đề xuất: "Diêu học đài

đã

sùng bái Diêu Quảng Hiếu như thế, nhị ca, sao huynh

không

thử tìm hiểu văn phong của Diêu Quảng Hiếu xem sao?"

Đừng đọc văn mẫu của Diêu Văn Đạt nữa, ông ta thích loại văn dạt dào cảm xúc cơ.

"Sao tự nhiên muội lại nghĩ thế?"

Phó Vân Chương

đã

quen với việc nàng

sẽ

nói

những điều khiến người ta phải giật mình nên thấy nàng đổi đề tài nhanh như vậy cũng

không

đến nỗi trở tay

không

kịp, trả lời nàng, "Diêu Quảng Hiếu hiểu thuật

âm

dương, bản thân ông ta hừng hực khí thế, văn phong cũng rất táo bạo, người khác chỉ có thể bắt chước cấu trúc bài viết của ông ta chứ học thế nào cũng

không

học nổi khí khái trong đó."

Điều này cũng đúng, Phó Vân Chương cũng có thói quen sử dụng câu từ của riêng mình, y có thể bắt chước phong cách của Diêu Văn Đạt nhưng Diêu Quảng Hiếu, từ con người đến văn phong đều quá khác biệt với y, tự nhiên

đi

bắt chước

thì

chưa chắc

đã

có thể lấy lòng Diêu Văn Đạt. Bắt chước

không

xong có khi còn hỏng việc.

Phó Vân

anh

ngẩn ra hồi lâu bỗng hiểu ra,

đi

đường tắt có thể đạt đến cái lợi trước mắt nhưng

không

thể vì ham lợi mà đâm đầu vào ngõ cụt.

Nàng suy nghĩ quá đơn giản rồi.

"Nhị ca, muội hiểu rồi." Nàng khẽ

nói.

Phó Vân Chương cũng

không

hỏi nàng vừa hiểu ra cái gì, mỉm cười gật đầu. Tốc độ học tập của nàng còn nhanh hơn nhiều so với y dự đoán, giống như vùi

một

hạt giống vào trong đất ẩm rồi tận mắt nhìn nó nảy mầm đâm rễ lên lá non. Giờ nàng

đang

cần

thật

nhiều ánh sáng mặt trời, nhưng cũng cần có mưa có gió, trải qua trải nghiệm của sương gió, rễ cây mới đâm sâu được.

Chỉ là

không

biết nàng có chịu đựng được hay

không.

oOo

trên

boong

đang

tràn ngập tiếng cười

nói,

một

lúc sau, Vương thẩm bước tới mời cả nhà xuống khoang thuyền ăn cơm.

Phó Vân Khải và Phó Vân Thái

đang

chơi hăng, chạy xuống bếp tìm bà tử nhờ lấy giúp mấy con cá trắm đen và bếp than hồng

đang

cháy đượm, muốn tự nướng cá ăn. Phó Quế, Phó Nguyệt đứng bên cạnh xem hai

anh

em xát muối lên thân cá

đã

đánh vẩy sạch

sẽ.

Phó tứ lão gia chiều trẻ con nên cũng để mấy đứa muốn làm gì

thì

làm,

đi

xuống khoang tìm Phó Vân Chương, định mời y uống rượu.

Vừa vào tới cửa, ông

đã

nhìn thấy Phó Vân Chương ngồi bên bàn viết chữ, Phó Vân

anh

ngồi

trên

ghế cạnh cửa sổ, trong tay cầm

một

quyển sách chăm chú đọc,

một

lớn

một

nhỏ

đều rất tập trung.

Mấy nha hoàn và gã sai vặt ngồi dưới đất, người thêu thùa, kẻ đan mũ rơm, ai làm việc của người đó,

không

ai

nói

chuyện, cả phòng im phăng phắc.

Ông ngại làm phiền nên lại

đi

ra.

Trở lại boong, nhìn thấy Phó Vân Khải và Phó Vân Thái

đang

phồng mang trợn mắt thổi bếp lò, tà áo

đã

giắt vào cạp quần, ông tự nhiên thấy ngứa mắt.

Phó tứ lão gia cuối cùng cũng hiểu vì sao từ ngày Phó Vân

anh

bắt đầu

đi

học, Tôn tiên sinh lại trở nên khó tính, hay bực mình như thế.

Trước kia

không

có ai để so sánh, cũng

không

thấy có vấn đề gì, Phó Vân Chương quá ưu tú,

không

dám đem ra so, hơn nữa y cũng lớn hơn hai đứa kia mấy tuổi.

Nhưng

anh

tỷ nhi còn

nhỏ

hơn hai thằng

anh

con bé mà!

Cứ coi như

anh

tỷ nhi tảo tuệ [4]

đi,

không

so sánh con bé với chúng nó nữa... Thế còn Tô Đồng

thì

sao? Tô Đồng cũng chẳng lớn hơn Khải ca nhi và Thái ca nhi bao nhiêu...

[4] Từ

nhỏ

hiểu biết hơn người, gần giống như thần đồng.


Phó tứ lão gia hừ

một

tiếng, xoay người về khoang.

Thôi

thì

khuất mắt trông coi.

Đêm nay thuyền của bọn họ đậu lại ở

một

bến tàu.

trên

sông gió

nhẹ

sóng yên, thực ra có thể

đi

cả đêm, vậy có thể đến phủ Võ Xương trước hừng đông, nhưng

trên

tàu lại có mấy đứa trẻ, hơn nữa lần này

đi

chơi là chính,

không

vội vàng gì, Phó tứ lão gia liền quyết định dừng lại

một

đêm rồi

đi

tiếp sau.

Bến tàu

không

chỉ có thuyền nhà bọn họ, còn có thuyền của vài nhà khác.

Chờ thuyền dừng hẳn, Phó tứ lão gia và Phó Vân Chương gặp gỡ chủ nhân các thuyền xung quanh, hỏi tên hỏi tuổi, hỏi thăm sức khỏe

một

hồi.

Trong khi người lớn

đi

xã giao, đám trẻ con chơi cả

một

ngày

đã

thấm mệt nên ăn cơm xong phải chuẩn bị

đi

ngủ luôn.

Phó Nguyệt, Phó Quế và Phó Vân

anh

ngủ chung

một

gian phòng, ma ma, nha hoàn như sắp ra trận, chia nhau túc trực ở trước khoang thuyền, cả đêm

không

ngủ.

Phó Nguyệt tò mò, "trên

thuyền toàn người nhà mình, người khác có vào được đâu, tại sao mấy ma ma lại thức trắng đêm canh gác làm gì?"

Phó Quế cười ha ha, tung chăn ngồi dậy,

thì

thào, "Muội nghe Liễu bà tử dưới bếp kể chuyện này..."

Nàng từ từ kể câu chuyện đó: Trước kia ở huyện Hoàng Châu, Trịnh gia có

một

tiểu nương tử

đi

nơi khác với cha mẹ, ban đêm ngủ ở

trên

thuyền. Đêm ấy,

trên

một

chiếc thuyền khác cũng đậu ở bến, có

một

vị công tử Thẩm gia. Vị công tử này nhìn thấy tiểu nương tử Trịnh gia vô cùng xinh đẹp liền đem lòng ái mộ, nhân dịp hai chiếc thuyền đậu sát nhau liền lén chạy sang chiếc thuyền của Trịnh gia...

Nghe đến đó, mặt Phó Nguyệt đỏ bừng, che mặt

nói: "Được rồi được rồi, tỷ muốn

đi

ngủ!"

Phó Quế bĩu môi, "Sợ cái gì chứ? Câu chuyện này ai cũng biết ấy mà, sau này tiểu nương tử Trịnh gia thành thân với công tư Thẩm gia kia thôi."

Phó Vân

anh

nằm bên ngoài

không

biết phải

nói

gì, đại khái Phó Quế

không

biết công tử Thẩm gia hôm đó lén chạy sang thuyền Trịnh gia xong

thì

điều gì xảy ra tiếp theo.

Ánh trăng như nước, cảnh vật đều tắm trong ánh trăng.

Nằm

trên

thuyền tựa như gối lên dòng nước trôi, đến giấc mơ cũng bồng bềnh.

Sáng sớm hôm sau, Phó Vân

anh

bước chân xuống giường, đầu vẫn còn tròng trành, lúc

đi

giày suýt nữa là trượt chân ngã sõng soài.

Ma ma giữ cho nàng ngồi vững, giúp nàng

đi

giày rồi chải đầu cho nàng.

Bến tàu đông vui tấp nập, nha hoàn mở cửa sổ hướng ra mặt sông, đủ loại

âm

thanh từ phía ngoài vọng vào hòa lẫn với nhau trong

sự

tròng trành của sóng nước, tiếng

nói, tiếng bước chân, tiếng cười của con trẻ.

Phó Vân

anh

lên boong hít thở

không

khí lại bắt gặp Liên Xác

đang

ngồi gặm củ ấu.

Liên Xác

nói

với nàng Phó Vân Chương còn chưa dậy.

"Tối hôm qua tình cờ gặp được quý nhân ạ!"

hắn

cắn

một

miếng củ ấu, tươi cười

nói, "Thuyền bên cạnh chúng ta là do đồng tri mới nhậm chức ở phủ Võ Xương Lý đại nhân thuê, ngài ấy có vẻ quý mến thiếu gia nhà chúng ta, nhất quyết rủ thiếu gia đàm luận thâu đêm, đêm qua tới canh tư thiếu gia mới trở về."

Đồng tri phủ Võ Xương?

"Lý đại nhân là người phía nam sao?"

Liên Xác lắc đầu, "không, là người phương Bắc, hình như là Bắc Trực Lệ, ngài ấy

nói

giọng phương Bắc, từng làm quan ở kinh thành nữa!"

Nếu là người phương Bắc, đáng ra vị này phải

đi

đường bộ xuống phía nam, tại sao lại

đi

thuyền ngược lên thế này?

Liên Xác gọt vỏ

một

củ ấu, giơ về phía Phó Vân

anh, "Ngũ tiểu thư, tiểu thư ăn củ ấu

không?"

Phó Vân

anh

lắc đầu.

Liên Xác thu tay về, cắn

một

miếng, loáng

một

cái

đã

ăn hết củ ấu to tròn mập mạp, lúng búng

nói: "Lý đại nhân định

đi

phủ Giang Lăng,

hắn

phải dời mộ cho người Ngụy gia."

Phó Vân

anh

giật nảy.

"Người Ngụy gia nào cơ?" Cố lấy lại bình tĩnh, nàng im lặng

một

lát rồi hỏi.

"Ngụy gia ở phủ Giang Lăng, trước kia nhà đó có rất nhiều cử nhân." Liên Xác gãi gãi đầu, suy nghĩ hồi lâu. "Sau này nhà bọn họ

đi

kinh thành, được vài năm

thì

chết cả. Lý đại nhân

nói

ngài ấy được người khác nhờ vả đưa linh cữu người Ngụy gia từ kinh thành về quê an táng."

Người Ngụy gia được mai táng ở

một

nghĩa địa ở ngoại vi kinh sư, mỗi lần Phó Vân

anh

muốn tế bái người nhà cũng chỉ có thể hướng về phương bắc vái vọng.

không



sự

cho phép của triểu đình, người bình thường

không

thể tới gần nghĩa địa kia chứ đừng

nói

tới chuyện dời mộ cho người nhà.

"Lý đại nhân đó tên là gì?"

Nàng

không

nhớ



Ngụy gia có họ hàng nào họ Lý hay

không.

Liên Xác trả lời: "Ngài ấy tên Lý Hàn Thạch, người cũng trắng trẻo thư sinh lắm."

Phó Vân

anh

lục tìm trong trí óc, cái tên Lý Hàn Thạch này nàng mới nghe tới lần đầu.

không,

không

phải Lý Hàn Thạch, Liên Xác

nói

hắn

được người ta nhờ vả, ai là người nhờ

hắn

dời mộ cho Ngụy gia đây?

Người này có thể thuyết phục được cả Hoàng đế, địa vị chắc chắn

không

bình thường.

Chẳng lẽ lại là người kia?

không

phải, người nọ

đã

ở tận chân trời góc bể,

không

thể nào xuất

hiện

ở kinh sư được.

Phó Vân

anh

siết

nhẹ

nắm nay, người này sẵn sàng mạo hiểm,

không

màng tới nguy cơ khiến Hoàng đế tức giận để an táng cho người Ngụy gia, chắc chắn phải là người thân thiết với cha nàng.

Hoặc là... có người cố ý làm như vậy để dụ nàng xuất

hiện.

Gió thổi

trên

mặt sông cuốn theo hơi nước, thổi tới mặt tới người nàng, lạnh buốt.

Nàng rùng mình

một

cái, từ từ bình tĩnh lại.

Mộ

đã

được dời về đây, về sau thể nào cũng có cơ hội tới tế bái,

không

cần phải nóng vội, trước khi tới cần phải hỏi thăm được người sau lưng Lý Hàn Thạch là ai.

Nếu là người bụng dạ khó lường, nàng

không

thể

đi

phủ Giang Lăng. Nếu là bạn cũ khi xưa của Ngụy gia, coi như nợ người ta

một

phần nhân tình.

Quyết định như vậy, nàng trở lại phòng tiếp tục đọc sách.

Lật được vài trang bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng

nói

chuyện.

Phó tứ lão gia đứng

trên

boong lớn tiếng

nói

chuyện với

một

người nào đó. Ở bến tàu tiếng người

nói

ồn ào, hai người

nói

chuyện với nhau cũng phải

nói

thật

to

thì

người kia mới nghe thấy.

Lát sau,

trên

đó vọng lại tiếng

nói

nhu hòa thanh lãnh của Phó Vân Chương, y

đang

chào từ biệt người ở thuyền bên cạnh, hai người còn hẹn hơn

một

tháng nữa

sẽ

gặp lại nhau ở phủ Võ Xương.

Giọng

nói

sang sảng kia có lẽ là của Lý Hàn Thạch.

Phó Vân

anh

chăm chú lắng nghe, tự khẳng định thêm lần nữa là nàng

không

biết người này.

Thuyền Phó gia lại rời bến,

đi

về phương Bắc.

Ăn sáng xong, Phó Vân

anh

tìm Phó Vân Chương hỏi mấy vấn đề nhưng lại thấy cửa khoang của y đóng chặt.

Liên Xác

đang

canh giữ ngoài cửa lắc đầu

nói, "Tối qua thiếu gia uống nhiều rượu nên giờ

đang

đau đầu, khi nãy dậy chào từ biệt rồi ngủ lại rồi ạ."

Phó Vân Chương có vẻ như

không

uống được nhiều rượu, lần nào tham gia hội văn hội thơ gì về y

sẽ

lại say tới lảo đảo cả người.

Trời nóng thế này say rượu rất khó chịu, nhất là lại ở

trên

thuyền.

"Ở đây ta có kim ngân lộ, ta

sẽ

bảo bà tử dưới bếp chưng lên, sạch

sẽ

hơn đồ mua bên ngoài,

trên

thuyền có băng lạnh, ngươi làm

một

bát trà kim ngân ướp lạnh cho nhị ca uống rã rượu."

Phó Vân

anh

bảo Phương Tuế đưa bình đựng kim ngân lộ cho Liên Xác.

Liên Xác nhận chiếc bình, cảm ơn rối rít, "Ngũ tiểu thư

thật

chu đáo, nhị thiếu gia thích uống cái này nhất, trong nhà cũng thường làm, đáng tiếc là năm nay phơi kim ngân chưa đủ độ nên hỏng hết cả."

"Đây là chuẩn bị cho nhị ca, ở nhà ta còn nhiều, nếu huynh ấy thích

thì

khi nào về ta bảo nha hoàn mang qua."

Liên Xác cười thưa vâng.

oOo

Tới chiều, thuyền

trên

sông càng ngày càng nhiều, tốc độ di chuyển càng lúc càng chậm,

đã

có thể nghe thấy tiếng ồn ào phía xa xa.

Tới phủ Võ Xương rồi.

Thuyền Phó gia chầm chậm cập bến.

Phủ Võ Xương là nơi giao nhau giữa hai con sông Trường Giang và Hán Thủy, xưa kia vốn là vùng giao tranh về quân

sự. Ban đầu hệ thống đường thủy được xây dựng với mục đích quân

sự, bắt đầu từ thời Tây Hán, khi nơi này vẫn có tên là Ngạc Huyện. Tới thời Tam Quốc, khi Tôn Quyền nước Đông Ngô đoạt lại Kinh Châu từ trong tay Lưu Bị, dời đô về đây, lấy ý "Dụng võ trị quốc nhi xương" (Dùng võ trị quốc để thay đổi) để đổi tên thành Võ Xương. Nhà thơ thời Đường Lý Bạch

đã

viết những câu thơ "trên

lầu Hoàng Hạc thổi sáo ngọc, Giang Thành tháng năm mai hoa rụng" tại đây, vậy nên phủ Võ Xương còn có tên là Giang Thành. Tới triều Nguyên, Võ Xương trở thành tỉnh lị của tỉnh Hồ Quảng, từ đó về sau chở thành thủ phủ của

một

vùng rộng lớn.

Phủ Võ Xương ở kế bên huyện Hán Dương, trấn Hán Khẩu. Sơn nam thủy bắc vi dương [5], cái tên Hán Dương có nguồn gốc như thế. Trong những năm Thành Hóa, Hán Thủy đổi dòng chảy từ Quy Sơn lên phía bắc nhập vào Trường Giang. Tới năm Gia Tĩnh, bên bờ phía bắc của Hán Thủy

đã

hình thành

một

thị trấn mới - trấn Hán Khẩu. Những ưu điểm về địa lý tự nhiên

đã

khiến trấn Hán Khẩu nhanh chóng đuổi kịp và vượt qua Hán Dương và Võ Xương, trở thành

một

thành trấn quan trọng trong việc thông thương hang hóa.

[5] Trong câu “Sơn nam thủy bắc vi dương, sơn bắc thủy nam vi

âm”. Trung Quốc (giống Việt Nam) ở Bắc bán cầu, mặt trời mọc ở đằng Đông và lặn ở đằng Tây, trong quá trình mặt trời chiếu sáng

thì

mặt trời

sẽ

"đi

qua" phương Nam. Do đó, sườn phía nam của núi

sẽ

nhiều nắng, sườn bắc

sẽ

không

có nắng. Vậy nên "sơn nam" là dương (sáng), "sơn bắc" là

âm

(tối). Bên cạnh đó sông của Trung Quốc đa phần chảy từ Tây sang Đông, do trục trái đất nghiêng nên dòng chảy bị lệch về phía nam, phần bờ phía nam bị xói mòn nên phía nam ẩm ướt còn phía bắc khô ráo. Do đó, "thủy bắc" là dương (khô), "thủy nam" là

âm

(ẩm).


Mười dặm cột buồm như phố thị, vạn nhà đèn đuốc sáng trắng đêm.

Đừng

nói

đến hai



bé ít khi được

đi

đâu xa nhà như Phó Nguyệt, Phó Quế, đến hai đứa con trai thường tự xưng mình là người "nhiều kiến thức" như Phó Vân Khải và Phó Vân Thái cũng bi cảnh tượng tấp nập ở phủ Võ Xương làm cho kinh ngạc đến há hốc cả mồm.

Lời tác giả:

Diêu Quảng Hiếu: Pháp danh Đạo Diễn, từng xuất gia, phụ tá Yến Vương Chu Lệ, học rộng tài cao. Để che giấu

sự

thật

Chu Lệ soán vị nên khi giám sát biên soạn sách sử

đã

bóp méo lịch sử khá nhiều.

Trong truyện,

nói

về cách phá đề của Diêu Văn Đạt, tác giả tham khảo vài thi của

một

vị tiến sỹ

đi

thi năm Vĩnh Nhạc thứ hai.

"Quân tử hiền kì hiền..." có nhiều cách giải thích khác nhau, truyện chỉ giải thích

một

trong số đó.

Phần

nói

về "bát cổ văn"

đã

tham khảo tài liệu.

Ở các thời đại khác nhau, loại văn này cũng có

sự

khác biệt, ví dụ đầu thời Minh, loại văn này có cấu trúc rời rạc hơn, càng về sau lại càng có các quy tắc nghiêm ngặt, mỗi phần bao nhiêu câu đều có quy định. Sau năm Vạn Lịch, loại văn này

không

còn phần "Nguyên đề" nữa.

Trong truyện này,

yêu

cầu của bài văn chặt chẽ hơn đầu thời Minh nhưng thoải mái hơn giữa triều Minh

Editor: Trong truyện, khi

nói

về văn thơ, tác giả thường nhắc tới

yêu

cầu nghiêm ngặt vè đối ngẫu. Đối ngẫu (thường gọi tắt là đối) là

một

trong những đặc trưng của thơ văn trung đại và cổ đại. Có nhiều kiểu đối khác nhau, cùng có nhiều các phân loại, ở đây editor chỉ đưa ra ví dụ vài kiểu đối để các bạn dễ hình dung. Ngôn đối là đối bằng từ ngữ, từ này trong câu

trên

đối với từ ở vị trí tương tự trong câu dưới.

sự

đối là đối bằng điển cố. Hai câu cách

nói

khác nhau nhưng cùng

một

ý gọi là chính đối, ý nghĩa trái ngược nhau gọi là phản đối. Ngoài ra đối ngẫu còn

yêu

cầu về từ loại (danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ…) về thanh (bằng đối với trắc và ngược lại)…


Ngoài ra, cấu trúc khai-thừa-chuyển-hợp cũng là cấu trúc phổ biến trong văn học (đặc biệt là thơ Đường, chúng ta đều học ở phổ thông). Thực ra có rất nhiều cách hiểu khác nhau của nhiều học giả khác nhau (vì người đề xuất

nói

mông lung quá), ở đây cũng nhắc tạm

một

cách hiểu đơn giản: Khai là mở đầu, thừa là mở rộng, chuyển là biến hóa để dẫn đến kết (hợp).

Thêm

một

chương hộc máu, mỗi lần Chu Hi là lại hộc máu, mình kị cái này từ hồi bé rồi, tầm mười mấy tuổi nghĩ đọc gì chứ

không

đọc Chu Dịch (vì khó quá). Hiểu biết của mình về phần này rất nông nên giải thích nhiều khi nghe ngây ngô. Phải cái hình như lắm người giống mình nên

trên

mạng cũng ít tài liệu. Hộc máu lần 2.