Khai sáng cho trẻ nhỏ thời này không gì khác ngoài bắt đầu từ "Thiên Tự Văn", "Tam Tự Kinh", nhưng những thứ văn vẻ này chỉ bắt trẻ con học thuộc lòng mà không cần hiểu nghĩa, với đầu óc của Sở Vọng, sống đến mười tám tuổi cũng chưa chắc đã lĩnh hội được.
Mà bắt cậu học thuộc lòng, với trí nhớ của cậu cũng là một việc khó khăn không kém.
Đây cũng là nguyên nhân quan trọng khiến Sở Vọng học hành bết bát, lớn tồng ngồng mà vẫn chưa biết chữ.
Sau khi tìm kiếm trong kho dữ liệu cách thức khai sáng tư tưởng hiệu quả, Trình Diễn cho rằng thay vì học những cuốn sách khô khan khó hiểu, chi bằng bắt đầu từ việc kể chuyện ngụ ngôn, nhân tiện giúp Sở Vọng rút ra bài học.
Suy nghĩ nhiều hơn mới không mãi ngốc nghếch.
“Cơ mà, nhìn là biết rắn là kẻ xấu rồi, tại sao người nông dân lại cứu nó thế?”
“Nếu có một người, cậu biết hắn ta là kẻ xấu, nhưng hiện tại hắn ta sắp chết, khóc lóc giả vờ đáng thương, cầu xin cậu cứu hắn, thế cậu có cứu không?”
Sở Vọng im lặng vài giây, nhỏ giọng đáp: “Ta không biết, nếu thật sự đáng thương... có lẽ sẽ cứu.”
“Người nông dân cũng nghĩ như vậy đấy.”
"Nhưng mà trên đời nhiều người đáng thương lắm, ta cũng không biết họ là người tốt hay xấu, vậy có nên cứu không?"
Trình Diễn suy nghĩ vài giây mới trả lời cậu: “Cố gắng hết sức mình, nhưng phải đặt bản thân lên hàng đầu. Đừng ngốc nghếch nghĩ cho người khác mà quên mất chính mình. Còn nữa, dù với ai cũng phải giữ một phần cảnh giác."
Sở Vọng tiếp thu cũng chậm hơn trẻ con bình thường đôi phần. Cùng một câu chuyện, Trình Diễn kể hôm trước, hôm sau kể lại, cậu vẫn nghe say sưa như lần đầu, chẳng nhớ mình đã từng nghe qua.
Tương tự, những bài học này dù có dạy nhiều lần đến mấy, cậu cũng chưa chắc đã tỏ tường được.
Sở Vọng trở nên ngốc nghếch do độc dược từ thuở còn đỏ hỏn, chỉ có cách giải độc mới chữa được tận gốc.
Đúng là Trình Diễn có vài phương thuốc hữu ích, nhưng anh chỉ có thể giao tiếp với Sở Vọng, vẫn chưa nghĩ ra cách nào để mượn lời cậu nói ra mà không khiến người khác sinh nghi.
Tuy nhiên còn chưa kịp hành động, Đới Trì Quan đã gửi thϊếp đến phủ và đích thân tìm tới.
Sở Vọng vui mừng khôn xiết, còn bảo với Trình Diễn hôm nay không nghe kể chuyện nữa, hăm hở kéo Đới Trì Quan ra đình tỉ tê.
“Trì Quan, không ngờ huynh lại đến tìm ta!” Sở Vọng cười toe toét, mắt dán chặt vào Đới Trì Quan không rời.
Miếng ngọc bội được đeo bên hông cậu, Trình Diễn nằm gọn trong ấy, đưa mắt đánh giá cái tên bội tình bạc nghĩa kia.
Dung mạo tuấn tú, ngũ quan đoan chính, làm quan trong triều, tướng mạo sáng sủa là điều tất yếu, Đới đại nhân cũng được coi là người nổi bật có một không hai.
Bằng không thì với thái độ lúc nóng lúc lạnh của hắn, làm sao có thể khiến Sở Vọng si mê đến vậy.
Đới Trì Quan mỉm cười, song nụ cười ấy chẳng mấy chân thành, hắn mở lời: “Quận vương, hôm đó người hẹn gặp tại hạ, chẳng may tại hạ có việc, không phải cố ý thất hứa, mong Quận vương thứ lỗi.”
Sở Vọng bĩu môi: “Huynh đừng nói văn hoa thế, ta không hiểu đâu.”
Đới Trì Quan dường như đã quen với việc cậu làm nũng, lại hỏi: “Quận vương giận ta sao?”
Sở Vọng lắc đầu: “Ta chưa từng giận, Trì Quan, sao huynh lại gọi ta là ‘Quận vương’ nữa rồi, huynh cứ gọi ta là ‘Sở Vọng’ đi.”
Đới Trì Quan cười nhạt, không đáp lời mà hỏi: “Nghe nói dạo này Quận vương không ra khỏi phủ, ở trong phủ có gì mới mẻ thú vị không?”
Sở Vọng lập tức hào hứng, nhưng rồi nghĩ đến điều gì, cậu thủ thỉ ra chiều thần bí: “Trì Quan, bây giờ ta không thể nói cho huynh biết được, đợi ta thông minh rồi sẽ kể với huynh.”
Trình Diễn đã nhắc nhở cậu, không được nói với ai về sự bất thường của miếng ngọc bội, cũng không được nói với bất kỳ ai về những gì họ làm hàng ngày, cậu ngoan ngoãn nghe theo.
Còn về việc trở nên thông minh ư?
Chẳng ai tin Tiểu Quận vương có thể trở nên thông minh cả, Hoàng thượng đã tìm biết bao nhiêu thần y, ai cũng đều bó tay hết cách.