Tây Sơn Hành Trình Vượt Thời Gian

Chương 23: Đánh bạc thua hết tiền thu thuế, vào rừng làm cướp

Ít lâu sau, khi quá trình chuẩn bị còn dang dở dang thì kế hoạch của Nguyễn Nhạc bị bại lộ. Một viên Đốc Trưng tên là Đằng trên cấp của Nhạc, tên này là chó săn chuyên đi rình rập điều tra những người có âm mưu nổi dậy chống đối triều đình. Từ dạo Nguyễn Nhạc vang danh là người nhà trời thì hắn đã bắt đầu nghi kỵ, nhưng chưa có bằng chứng cụ thể nên hắn âm thầm điều tra thêm.

Gần đây một số hào kiệt phú hào cứ đến bái phỏng nhà của Nhạc nên hắn đinh ninh rằng Nhạc có mưu đồ tạo phản, muốn làm giặc, nên hắn liền đi bẩm báo với quan trên.

Lúc này Thung cử người đến thông báo cho Nhạc.

Gia nhân đến báo là người của Thung có việc gấp cần bẩm báo.

Nhạc dẫn vào phòng riêng rồi hỏi han.

Gia nhân báo:

- Chủ tôi nói, hôm trước có người trong triều đình mật báo là có Đốc Trưng Đằng hạch tội ông làm phản, nay triều đình chuẩn bị tổ chức một đạo quân đến để trấn áp. Mong ông nhanh chóng thu xếp ứng phó.

Nói xong thì gia nhân đó xin phép được cáo từ ra về.

Nhạc nghe tin thì cả kinh thất sắc, nếu như lúc này mà đυ.ng độ quân lực của triều đình nhà Nguyễn thì không cách nào chống lại được, dù dưới trướng có gia nhân tráng sĩ hơn nghìn người nhưng so với triều đình thì chỉ như một nhóm nhỏ, vả lại công tác huấn luyện cũng đang giữa chừng, các huynh đệ chưa đủ thực lực để giao tranh. Giờ phải làm sao đây.

Bỗng Nhạc nhớ tới lời thầy Hiến:

- Khi nào con rơi vào thế hung hiểm thì lấy 1 túi ra xem

Nhạc vội mang túi có chữ nhất ra xem, trong túi có ghi:

- Cướp lấy kho lương, thu tất cả của cải quan viên, lánh về phía Thượng Đạo Tây Sơn.

Đọc xong Nhạc an tâm hơn phần nào, liền gấp rút hành động ngay.

Lúc này Lân cùng Long cũng tới nhà của Nhạc

Nhạc thấy hai người thì vui mừng, nhưng cũng có phần nghi kỵ

Lân lên tiếng trước:

- Ngày trước khi đệ ghé qua nhà ta cảm tạ, ta có nói với đệ về việc có tiếng thì có tai, đệ còn nhớ.

Nhạc thấy vậy liền nói:

- Lân huynh quả thật là người suy tính sâu xa, nhưng sao hôm nay huynh lại biết việc mà đến đây.

Lân nói:

- Đêm ta nhìn sao trời thấy dị tượng, sao mập mờ không sáng tỏ, ắt có chuyện binh biến nên nay ta đến đây trợ giúp.

Nhạc nghe thì tin liền, dù sao cũng là đồng sư môn học về huyền học của thầy, Nhạc không am hiểu nên không theo mà dành thời gian để chiêu mộ, cộng thêm việc lần trước Lân sư huynh nhắc nhở nên khi nghe liền không chút nghi ngờ.

Nhưng thực ra Lân có biết sao xem sao trời cái gì đâu, học thì toàn lơ đễnh như vịt nghe sấm, sở dĩ biết chuyện là do Lân nhớ về lịch sử, khi Nhạc đang trong giai đoạn chuẩn bị thì có kẻ báo lên triều đình, trong thời gian này Lân luôn để ý tơi động tĩnh của các quan viên, binh lính. Trong nhóm gia nhân của Lân có một số cao thủ được phái đi nằm vùng, chỉ cần có động là báo ngay.

Nhạc lúc này cũng không có nhiều thời gian để nói chuyện thêm, liền vừa mời hai người tới cùng huấn luyện các nghĩa sĩ.

Nhạc nói:

- Ta được thầy mách bảo là cần phải nhanh chóng cướp lấy kho của tên Đốc Trưng sau đó trốn vào vùng thượng đạo của Tây Sơn nơi đó là vùng núi rừng, dễ thủ khó công.

Lân nói:

- Cách này rất tốt, tiến hành ngay thôi không nên chậm trễ.

Cả ba cùng xuất lãnh 3 đội, mỗi đội một trăm người võ sĩ được tuyển chọn, mang theo khí giới âm thầm tiến đến kho của Đốc Trưng Đằng.

Khi đến kho ấy Lân tung người nhảy qua hàng rào nhanh chóng hạ thủ 2 tên lính gác. Do chưa từng gϊếŧ qua người nên Lân chỉ đánh 2 tên ấy ngất xỉu, sau đó mở cổng ra

Một võ sĩ kề cận với Nhạc thấy cả 2 chưa chết thì dùng đao chém chết 2 người gác cổng và nói:

- Làm việc lớn không nên mềm lòng phòng hậu họa sau này.

Rất nhanh cả đoàn người kéo vào, lùng bắt tên Đốc Trưng và tản đi tìm kho chứa của cải.

Nhạc là người phát hiện ra nơi ở của tên Đằng, hắn đang trái ôm phải ấp hai người thϊếp. Miệng thì đang cười toe toét vì nghĩ tới chuyện được Trình Đình Trọng thưởng sau khi bắt được tên giặc Hai Trầu. Khi thấy nhiều người cầm đao kiếm xông vào thì hắn cả kinh, mặt cắt không còn giọt máu nào, muốn la lên cầu cứu thì bị một võ sĩ đánh ngất rồi trói lại, hai nàng thϊếp thì khóc lóc xin tha nhưng bị một đao chém chết.

Long phát hiện ra một căn phòng có cửa dày và nặng, khóa cẩn thận nên biết ngay đây là phòng chứa của cải thu thuế của tên Đằng, Long vận kình chém đứt ổ khóa rồi đẩy cửa đi vào.

Những người theo cùng đều thất kinh khi thấy kho chứa nhiều của cải, vàng, bạc. Khả năng trong đây ngoài tiền thu thuế ra còn có tiền mà tên này vơ vét của dân. Mọi người khẩn trương mang túi ra thu gom tất cả rồi nhanh chóng rời đi.

Bắt tên Đốc Trưng Đằng lên một cái đồi rồi tuyên cáo các tội trạng của hắn ta. Tên này là một tên háo sắc nên khi đi thu thuế đã làm hại không biết bao nhiêu thiếu nữ, nên trước tiên dùng kiếm cắt cu của hắn. Tên Đằng bị cắt cu thì kêu lên thảm thiết rồi ngất đi. Nhạc cho người lấy nước dội cho hắn tỉnh dậy, đọc tiếp về tội ác vơ vét của dân chúng, sau đó xử tử hắn ta (Ở Tây Sơn có đồi Cắt Cu, ắt là nơi xử tử Đốc Trưng Đằng)

Nhạc nhanh chóng cùng gia đình và các nghĩa sĩ thu xếp hành lý lên thuyền trốn lên vùng thượng đạo Tây Sơn và phao tin rằng:

Nguyễn Nhạc đánh bạc, bị thua to, lấy trộm hết cả kho tàng của nhà nước rồi bán hết của cải trong nhà vẫn không đủ trả nợ, bị viên Đốc Trưng tên là Đằng giận, vu cho là làm phản. Nay, Nguyễn Nhạc vì không kiềm chế được cơn bực tức, đã lỡ tay gϊếŧ chết kẻ dám cả gan vu oan cho mình, sợ quan trên bắt tội nên đã bỏ trốn.

Vụ án đến đó là hoàn toàn bế tắc, bởi nguyên cáo đã bị gϊếŧ còn bị cáo thì trốn biệt tăm. Chúa Nguyễn đành phải hạ lệnh lui quân.

Sau khi rút quân lên vùng rừng núi Tây Sơn thì Nhạc cùng Lân và Long tiến hành xây dựng nhà cửa để cho mọi người có nơi ở, lương thực được vận chuyển cẩn thận cất vào kho. Nguyễn Lữ chịu trách nhiệm quản lý phần lương thực và của cải. Lân thì cho người xây dựng các ngôi nhà, trong nghĩa quân có rất nhiều thợ của Lân theo nên việc xây dựng rất nhanh chóng.

Vị trí chọn làm căn cứ là vùng có núi sau lưng, theo binh pháp với địa hình này nên bố trí theo hình yển nguyệt. Lân cho người gấp rút đi lấy xi măng và sắt đã chuẩn bị trước đó và kiến nghị cùng Nhạc cho người ra suối lấy cát và đá về.

Quân số hiện tại có khoảng hơn 3 nghìn người, Lân chỉ huy xây tường chắn bằng bê tông cốt sắt, chỉ trong 10 ngày một bức tường chắn bằng bê tông dày nửa thước cao gần 1 trượng đã hình thành, bao quanh nơi ở. Cứ khoảng cách độ chừng 1 trượng thì Lân chừa một lổ nhỏ chừng hơn gang tay, để khi địch tấn công thì có thể bắn tên ra. Mỗi trăm bước đặt một chiến lâu; 50 bước đặt một cỗ súng toán phong; cách 3 thước ở trong thì đặt một cái cùm, phản và giá khí giới của phô canh. Cách tường 50 bước thì dựng lều rạp. Trong thành đặt một cây cột cao 70 thước. Ngoài tường đặt một lớp tường dê ngựa; ngoài đào một lớp hào, ngoài nữa cách chừng 3 bước dựng một lớp rào gỗ; ngoài rào gỗ lại bày một lớp thành gai; ngoài lớp lại có một lớp hố sập ngựa.

Triều đình khi cho quân đi lùng bắt Nhạc không được thì cho rút quân về, sai những toán quân nhỏ đi thám thính điều tra. Các quan viên trong vùng thì chỉ nghĩ Nhạc cũng chỉ tập hợp được mấy mươi người, không có gì đáng lo ngại.

Trong tình thế này, việc luyện quân là vô cùng cấp thiết, Nguyễn Nhạc giao Nguyễn Huệ chịu trách nhiệm luyện quân ở một hòn núi (ngày sau còn được gọi là núi ông Bình, Nguyễn Huệ còn có tên khác là Nguyễn Quang Bình).

Nguyễn Huệ giờ cũng đã trở thành một cao thủ, cộng thêm việc trời sinh thần lực nên dù còn trẻ tuổi vẫn ít có người địch lại. Binh sĩ được huấn luyện ai cũng đều rất kính phục.

Nguyễn Lữ được phân công lo sản xuất và tích trữ lương thực, không trực tiếp tham gia huấn luyện binh sĩ như hai anh của mình. Kho tàng Tây Sơn do Nguyễn Lữ phụ trách để ở núi Đồng Phong (sau này gọi là Núi Lãnh Lương)

Hôm ấy Lân ghé qua nơi Huệ luyện quân. Trên đài Huệ đang dõng dạc hô to các hiệu lệnh điều khiển quân, đội hình quân sĩ răm rắp tuân theo rất chỉnh tề.

Lân thấy thế cũng thầm phục cái tài luyện quân của Huệ. Nên biết rằng đây là một đội quân tập hợp những người chưa từng trãi qua huấn luyện, không hiểu gì về quân pháp, kỷ cương, nên việc huấn luyện để đi vào hàng ngũ chỉnh tề rất khó, cần có một thời gian dài. Vậy mà, chỉ trong thời gian hơn nửa tháng, Nguyễn Huệ đã có thể huấn luyện đội hình đâu ra đó, đúng là một thiên tài trong lĩnh vực quân sự.

Một lúc sau, khi binh sĩ nghỉ giải lao, Huệ mới tới gặp Lân.

Lân chắp tay:

- Xin ra mắt thống lĩnh!

Nguyễn Huệ cười nói:

- Huynh cứ trêu chọc đệ, tuy trong quân cũng hay gọi đệ như vậy nhưng huynh gọi thì đệ thấy không quen. Cứ gọi đệ là sư đệ như bình thường thôi.

Huynh thấy binh sĩ được huấn luyện như vậy đã ổn chưa?

- Quá là ổn luôn đó chứ, lúc ta đi đến đây vẫn không nghĩ rằng đệ có thể nhanh chóng tổ chức huấn luyện cho các nghĩa sĩ đi vào nề nếp nhanh đến như vậy. Bước đầu hình thành nên đội ngũ chỉnh tề, tuân theo hiệu lệnh nhanh chóng như vậy đã là quá tốt.

- Được sự khích lệ của Lân sư huynh làm đệ càng thêm tự tin. Đệ đang bắt đầu huấn luyện cho binh sĩ các loại hình trận pháp. À suýt thì quên, mời Lân sư huynh qua phía bên kia dùng trà.

Sau khi cho người mang trà lên, Huệ tự tay rót trà cho Lân. Uống một hớp trà, Lân chậm rãi nói:

- Binh khí cho nghĩa quân có được trang bị tốt không?

Huệ đáp:

- Ngày trước đại ca có thu mua một số binh khí để dùng cho ngày hôm nay nhưng không được nhiều, hiện tại thì không đủ dùng cho tất cả các binh sĩ, phải chia ra từng tóp nhỏ luân phiên nhau sử dụng luyện tập.

Lân nghe thấy thế thì nói:

- Hiện tại ở lò rèn của tứ thúc, ta có trữ một lượng sắt chưa qua gia công. Hôm nay ta tới đây cũng vì việc này, Long là người biết rèn binh khí, ta sẽ gọi hắn qua đây lập nên lò rèn, còn đệ thì sắp xếp người trong quân để rèn sắt.

Huệ đứng lên vui mừng:

- Được vậy thì tốt quá, đệ đang định kiến nghị với đại ca về việc tuyển các thợ rèn về rèn binh khí cũng như các loại nông cụ để cho các huynh đệ trong doanh trồng trọt thêm hoa màu, thảo dược quanh vùng này.

Lân gật gù:

- Trồng trọt thêm cũng là điều nên làm ngay. Giờ để ta về cho người đi lấy sắt ngay.

Lân đang định trở về thì nghe Huệ nói thêm:

- Gần đây khi đi tuần tra ở các hang động đệ thấy có rất nhiều dơi, phân dơi có thứ gì đó phát sáng, đốt thì cháy mạnh, đệ đang cho thu gom.

- Đệ cứ xem xét sử dụng nó nhưng phải cẩn thận đó là những chất độc hại, hít phải khí của nó về lâu dài thì sẽ tổn hại đến sức khỏe rất nhiều. Những người tham gia điều chế phải tắm rửa sạch sẽ sau khi xong việc.

- Đệ sẽ làm theo lời huynh.

Lân cáo từ để trở về nơi mình ở.

Lân nhớ trong binh pháp có ghi lại các công thức chế tạo thuốc nổ, chế tạo súng, hoặc các loại thuốc nổ phóng (trong binh pháp gọi là hỏa tiễn), thuốc nổ độc, hỏa cầu, thuốc độc, hỏa mù…Ví dụ như hỏa cầu trong binh pháp có ghi:

Phép hoả cầu là phép thần của Tây Dương. Trong lúc đem quân đi đánh giặc, hai bên bày thành thế trận, ta đem súng phi thiên mà bắn, quả nổ tung ra, rơi đến đâu thì quả nổ nổ ra, mảnh sắt tung toé bốn mặt, dẫu gươm giáo choáng trời, cờ xí lấp đất cũng chỉ một lát là tan nát hết.

Phép làm: Trước hết sai thợ sắt đúc một bình gang tròn ước 1 thước gọi là quả mẹ, lại đúc ba quả con mỗi quả tròn 2 tấc. Đều đúc gang mỏng. Trên miệng có nắp có đường trôn ốc để khi đậy nắp lại không bật ra được. Rồi sau nạp thuốc súng vào miệng bình.

Trong lòng đựng đầy thuốc súng, xong rồi lấy nắp đậy kín miệng lại. Trước đυ.c một lỗ nhỏ để luồn dây ngòi vào. Dùng vỏ gai ngâm nước muối phơi khô kết thành dây và quấn ở ngoài quả nổ, hình như rắn quấn, như thế là để cho lửa không cháy vung ra. Lại lấy vỏ gai khô buộc xen vào, khiến cho lửa không tắt được. Lại lấy dây ngòi thuốc súng quấn vào toàn thân quả nổ, cuối cùng luồn đầu ngòi vào lỗ nhỏ, như thế là cốt cho nổ chậm. Lại lấy nước muối tẩm vào vỏ gai, phơi khô, quấn vào chung quanh quả nổ rất kín. Làm như thế xong rồi lại lấy dây thau nhỏ buộc chằng ngoài, để cho lúc bắn đi không tuột da quả nổ. Lấy mấy quả con ấy nạp vào trong bụng quả mẹ. Quả mẹ cũng làm như cách nói trên. Còn đầu dây ngòi thì nên để hở ra ngoài, Cứ thế đem quả nổ nạp vào đại bác phi thiên mà bắn thì quả nào cũng nổ.

Bài thuốc nạp quả nổ:

Diêm tiêu 1 lạng, Lưu hoàng 1 đồng 2 phân, thạch tín 8 phân, than gỗ dâu 1 đồng 2 phân 2 ly, hồ tiêu 8 phân, bạch chu sa 8 phân, nao sa 8 phân.

Bài làm ngòi.

Bạch diêm 2 lạng 2 phân, Lưu hoàng 8 đồng cân, than gỗ dâu 1 lạng 6 đồng cân,

giấy trắng tẩm bạch diêm đủ dùng

Bài thuốc súng:

Diêm Liêu 5 đồng cân, lưu hoàng 3 đồng cân.

Than gỗ xoan 3 đồng 5 phân.

Diêm tiêu trong thời này đa phần là lấy từ tự nhiên trong các hang động. Còn việc điều chế thì không có. Theo như Lân nhớ thì diêm tiêu này có thể điều chế, đổ amoniac có trong nướ© ŧıểυ vào phân để chiết xuất ra nitrat kali. Khi quá trình hoá học diễn ra làm phân huỷ phân, chất lỏng bị bay hơi và để lại lớp bột thủy tinh màu trắng ở phía trên, đó là nitrat kali (diêm tiêu).

Súng trong thời đại này chỉ bắn khi quân địch ở một phạm vi nhất định, còn giáp lá cà thì coi như vứt, vì nó không có tính cơ động như thời hiện đại, thời gian nhồi thuốc súng, lắp đạn rất lâu. Lân nghĩ tới việc chế tạo ra súng AK, đại liên, tiểu liên, súng ngắn, khi đó hắn ta sẽ là người mang đội quân súng ống đi đánh chiếm thế giới, nhưng nghĩ một lúc hắn chép miệng, thôi bỏ đi, biết mẹ gì đâu mà chế với tạo. Súng ở thời hiện đại là loại cơ khí chính xác, các linh kiện lắp vào với nhau có độ chính xác, còn có dây lò xo được chế tạo từ thép có độ đàn hồi cao, đạn thì cần có máy ép…lúc đi học quân sự có học qua tháo lắp súng AK nhưng làm sao mà nhớ cho nổi, có nhớ cũng khó lòng mà chế tạo ra.

Lân thầm nghĩ: [Cùi bắp nên thôi bỏ đi, phương án này không khả thi. Cứ chế tạo mấy cái thuốc nổ cùi mía này trước rồi tính].