Chương 3: Bi thương
Dương Cẩm Trình mệt mỏi ngẩng đầu lên khỏi bàn làm việc trong văn phòng, ông cảm thấy đau nhức ở phía sau gáy. Cú vươn vai cho dãn gân cốt đang tiến hành được một nửa bỗng dừng lại, ông khom lưng cúi xuống ngây người nhìn vào màn hình rồi cầm cốc nước đã nguội lạnh từ bao giờ uống một hơi.Chiếc cốc rỗng không vẫn còn nặng trịch trong tay. Dương Cẩm Trình đứng dậy, đi đi lại lại mấy bước trong văn phòng, khi đến cạnh cửa ra vào, ông thuận tay đẩy cửa bước ra ngoài.
Vừa bước ra khỏi cửa, mọi nỗi mệt mỏi trên khuôn mặt Dương Cẩm Trình bỗng nhiên biến mất. Trông ông như luôn luôn tràn đầy sinh lực, một chủ nhiệm Dương khoan dung mà không mất đi vẻ anh minh, dí dỏm nhưng không mất đi vẻ uy nghiêm.
Dương Cẩm Trình bước chậm chạp dọc theo hành lang được trang trí rất cầu kỳ, bước đi chậm rãi, không phải vì tuổi tác mà ông muốn cho mọi người cảm nhận thấy sự ung dung đĩnh đạc. Bên cạnh, chốc chốc lại có người dừng bước cúi chào, rồi vội vàng bỏ đi. Dương Cẩm Trình nhìn kính cửa sổ ở hai bên, tuy đã sắp 8h30 tối rồi, nhưng trong các văn phòng sáng đèn vẫn còn rất nhiều nghiên cứu viên đang bận rộn. Hình ảnh nhộn nhịp trước mắt khiến Dương Cẩm Trình rất mãn nguyện. Ông giống như một vị nguyên soái đang duyệt binh, đang dạo bước trước đội quân nghiêm trang, tề chỉnh, một mình hưởng thụ cảm giác ưu việt hơn hẳn người khác.
Sau khi kiểm tra một số phòng ban, vỗ vai một số người này, nhận lời chào của một số người khác, Dương Cẩm Trình thong thả quay trở lại phòng làm việc của mình. Ông ngồi vào chiếc ghế to nhất, rộng nhất, thoải mái nhất viện nghiên cứu, sự mệt mỏi vừa biến mất nay đang từ từ quay lại cơ thể. Dương Cẩm Trình ngồi rất lâu trong tư thế co quắp cho đến khi ông đặt cánh tay tê dại lên mặt bàn.
Ngón tay đè phải con chuột máy vi tính, màn hình tự động phát ra một tiếng tách, khuôn mặt của Dương Cẩm Trình dần dần bị ánh sáng ở màn hình soi vào. Ánh mắt của ông nhìn vô thức vào màn hình máy tính đang càng ngày càng sáng lên. Bỗng nhiên hình như nghĩ ra điều gì đó, Dương Cẩm Trình ngồi thẳng người di chuột vào “My Computer”, vào phần ổ cứng. Sau khi kích chuột liên tục vào các folder một cách thành thạo, một file văn bản ở rất sâu trong máy được mở ra. Dương Cẩm Trình cẩn thận nhìn khắp văn phòng trống không một lượt rồi nhanh tay gõ một dòng mật mã. Tiếp đó ông cúi sát mặt vào màn hình nhìn không chớp mắt. Dần dần trên khuôn mặt Dương Cẩm Trình hiện lên một nụ cười. Nụ cười ấy từ từ hiện lên từ khóe môi đến hai má. Cuối cùng, từng sợi lông mày cũng nhảy dựng lên vì sung sướиɠ.
Dương Cẩm Trình lần lượt đọc những văn bản này, mỗi khi đọc đến một văn bản mới, trên mặt ông ta lại hiện lên một biểu hiện rất lạ, giống như vội vàng xem một đồ vật mà mình quá quen thuộc từ lâu. Ông ta như đang chơi trò bịt mắt bắt dê với chính mình. Vừa tự hỏi: Cái này có đặc sắc không? Vừa cố tình quên đi những văn bản và sơ đồ đã thuộc lòng. Khi mở ra một văn bản thì cố tình lừa mình, dối người bằng tiếng kêu kinh ngạc: Ôi, cái này còn đặc sắc hơn này.
Dương Cẩm Trình chơi không biết mệt trò chơi này. Đây có vẻ như là số mệnh, là linh hồn của ông ta, cứ như cuộc đời sau của ông ta chính là nó vậy.
10h30 tối, chiếc xe Audi màu bạc của Dương Cẩm Trình từ từ tiến vào khu chung cư “Trí - Uyển”. Đây là khu nhà ở cao cấp của thành phố. Đúng như tên gọi của nó, chủ nhân những căn hộ ở đây phần lớn đều là những phần tử trí thức cao cấp. Dương Cẩm Trình dừng xe, vội vã đi về khu chung cư nhà mình. Chưa đến dưới lầu đã nhìn thấy một bóng người nhỏ bé ngồi trên bậc lên xuống. Dương Cẩm Trình đang nghi ngại xem đây là con cái nhà ai mà muộn thế này vẫn chưa về nhà. Đèn điện trước cửa chung cư đã bật sáng. Dương Cẩm Trình giật mình. Đây chẳng phải là Dương Triển con trai mình sao?
Dương Cẩm Trình vội vàng chạy tới đẩy vào vai Dương Triển, “Ơ, sao con lại ngủ ở đây?”
Dương Triển mơ mơ màng màng ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào Dương Cẩm Trình một lúc lâu cứ như không nhận ra đây là bố mình. Dương Cẩm Trình nắm cánh tay Dương Triển nhấc nó đứng dậy, vừa móc chìa khóa ra vừa hỏi: “Chìa khóa của con đâu? Lại mất rồi à?”
Dương Triển “vâng” một tiếng, đưa tay dụi mắt. Nó ngoắc cặp sách ở khuỷu tay, cánh tay nặng quá kéo lệch cả đầu. Dương Cẩm Trình dùng tay nhấc cặp sách lên đeo qua loa lên vai nó. Dương Triển đang ngái ngủ bị động tác của bố làm cho loạng choạng. Nó nhanh chóng đứng thẳng người dậy ngoan ngoãn đi theo bố vào cầu thang máy.
Trong căn hộ tầng 18, Dương Cẩm Trình cởi giầy, vứt áo vét lên sofa định đi nghỉ ngơi cho thoải mái chợt có tiếng chuông điện thoại bất ngờ vang lên.
Ông chửi khẽ một câu rồi đứng dậy cầm ống nghe.
“Chào anh... dạ, vâng đúng ạ. Tôi là bố của cháu Dương Triển... vâng, anh Hạ, chào anh... cái gì cơ? Không thể nào... Cặp sách của con anh bao nhiêu tiền... À, thôi được rồi, tôi sẽ làm rõ việc này... À à, xin lỗi anh Hạ, hôm khác tôi sẽ đến nhà anh để xin lỗi. Chào anh!”
Dương Cẩm Trình đặt ống nghe xuống, quay người quát một tiếng thật to: “Dương Triển!”
Dương Triển đang từ từ đứng lên ở cửa, nó vừa mới bước vào nhà, vẫn chưa kịp bỏ cặp sách, cũng chưa kịp cởi giày và cũng không kịp bỏ chạy nữa.
Dương Cẩm Trình xách con trai như xách con gà con lôi vào giữa phòng khách, vội vàng kéo cái cặp sách xuống nhìn ngắm một cách kỹ lưỡng.
Đây là một cái cặp bình thường, bên trên in hình siêu nhân sặc sỡ. Đường may rất kém, trên mặt đã có chỗ bị tuột đường chỉ, chỗ nào cũng dính đầy vết mực.
“Đây là cặp của con à?” Dương Cẩm Trình dốc tung cái cặp, sách vở bút mực trong cặp bắn tung tóe ra đất.
Dương Triển cúi đầu không nói gì.
“Nói mau, có đúng không?” Dương Cẩm Trình đẩy mạnh vào vai Dương Triển một cái.
Dương Triển khẽ trả lời: “Không phải ạ!”
“Vì sao lại bắt bạn đổi cặp? Sao? Mày có biết cái cặp sách của mày bao nhiêu tiền không? Cái này à?” Dương Cẩm Trình tức giận ném cái cặp xuống nền nhà. “Có phải mày bị điên rồi không?”
Dương Triển bỗng ngẩng đầu lên, tỏ ra bình tĩnh, thậm chí còn cười một cái: “Bố có nhận ra cặp sách của con không?”
Dương Cẩm Trình bị hỏi vặn ngay lập tức cảm thấy các cơ trên mặt của mình như đều dồn tụ lại một chỗ.
“Bốp!” Một cái tát thật mạnh giáng vào mặt Dương Triển.
Thân hình bé nhỏ của Dương Triển bị đánh rung lên. Lại bịch một tiếng nữa ngã sõng soài ra sàn nhà. Dương Cẩm Trình trong cơn giận dữ lại lôi Dương Triển dậy muốn đánh tiếp.
Máu mũi Dương Triển chảy ra. Nó nằm bất lực trong tay bố, không thể vùng vẫy ra được, liều mạng quay đầu ra, hướng về phía bức tường phòng khách kêu ầm lên: “Mẹ ơi... Mẹ ơi...”
Tiếng kêu thảm thiết của Dương Triển khiến Dương Cẩm Trình dừng tay lại giữa chừng. Ông bất giác nhìn về phía bức tường. Vợ ông đang đứng trong bóng tối nhìn hai bố con, đôi mắt dịu dàng như ẩn chứa sự cầu xin.
Dương Cẩm Trình buông tay, Dương Triển đổ gục xuống sàn nhà, nằm co quắp miệng rên hừ hừ không thành tiếng: “Mẹ ơi... mẹ ơi...”
Dương Cẩm Trình sau khi buông tay vẫn đứng im tại chỗ thở dốc cho đến khi hơi thở trở lại bình thường, ông chỉ tay: “Về phòng ngay! Tối nay đừng có mà ăn cơm!”
Dương Triển lồm cồm bò dậy chạy nhanh về phòng, “rầm” một tiếng, cánh cửa đã đóng lại.
Thằng bé không bật đèn, ngồi lặng lẽ trong phòng, thỉnh thoảng lại khịt khịt mũi. Nó đã ngừng khóc từ lâu, nước mắt trên mặt đã cạn khô, hai má nứt nẻ. Ngồi một lúc, nó thận trọng xoa nhẹ lên bộ mặt sưng phồng, có thể cảm nhận thấy có mấy vết hằn của ngón tay.
Thằng bé tỏ ra rất bình tĩnh, không chịu khuất phục, cũng không tức giận, chỉ luôn tay sờ lên mặt đồng thời chú ý lắng nghe mọi động tĩnh bên ngoài phòng khách.
Cuối cùng nó nghe thấy tiếng cọt kẹt ở sofa, hình như có người đứng lên, tiếp đó là tiếng bước chân nặng nề của bố nó. Tiếng động đó kéo dài cho đến phòng ngủ của ông, tiếp theo là tiếng đóng cửa.
Thằng bé không động đậy, nó thận trọng lắng nghe cho đến khi chắc chắn rằng bố nó đã ngủ. Nó trượt theo mép giường xuống đất, chui xuống gầm giường, một lúc sau ôm một chiếc hộp sắt chui ra.
Thằng bé mở hộp sắt, ngồi dựa vào thành giường. Trong hộp sắt là rất nhiều đồ ăn, phần lớn là đồ ăn thừa. Có mấy lát bánh mì, mấy miếng bánh gạo đã vụn, nửa chiếc xúc xích, gói bánh quy đã bóc dở, còn có cả mấy viên thạch hoa quả. Dựa vào ánh trăng soi qua cửa sổ, nó chọn mấy thứ cho vào mồm. Nó ăn một cách thong thả, ung dung, ánh trăng chiếu thẳng vào một góc phòng.
Ăn xong thằng bé lại đẩy cái hộp vào gầm giường, phủi bụi trên người, chuẩn bị đi ngủ. Lúc giũ quần áo, tay nó sờ phải một vật cưng cứng. Nó lôi vật đó ra, thì ra là hai chiếc chìa khóa móc vào nhau. Thằng bé xòe chùm chìa khóa trên tay rồi bỗng nhiên đứng dậy mở cửa sổ.
Thời tiết đêm khuya se lạnh khiến thằng bé thấy khoan khoái. Nó hít một hơi thật sâu, một tay nắm chùm chìa khóa ném vào trong bóng đêm. Sau đó nó thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhưng dưới lầu tối om om, chẳng nhìn thấy cái gì. Chỉ nghe thấy “cạch” một tiếng. Thằng bé có vẻ thất vọng. Nó nhìn vô vọng vào bóng đêm phía trước. Chung cư trước mặt có mấy nhà còn sáng ánh đèn, thông qua tấm rèm mỏng có thể nhìn thấy bên trong có người đang đi lại.
Một nụ cười nhẹ nhàng hiện trên mặt thằng bé. Nó trèo lên bậu cửa sổ, thân hình bé nhỏ của nó co ro. Nó ôm lấy hai bờ vai lặng lẽ nhìn những ngọn đèn le lói ở chung cư đối diện.
Việc tranh chấp quyền điều tra vụ án nhanh chóng được giải quyết. Cảnh sát thành phố J rút khỏi vụ án. Cảnh sát thành phố C được giao điều tra vụ án bao gồm các công việc: hỏi cung, di lý[1] và khởi tố tội phạm. Phương Mộc sau khi nhận được thông tin trên liền đề nghị với cục trưởng Biên Bình cho được thụ lý vụ án. Cục trưởng Biên Bình đồng ý.
[1] Di lý: từ chuyên môn, nghĩa là đưa đối tượng từ nơi này đến nơi khác.
Theo quan điểm của Phương Mộc, động cơ gây án của La Gia Hải rất lạ. Từ vụ án có thể thấy đã có ba người bị hại. Trong đó, nguyên nhân cái chết của Thẩm Tương rất có thể là tự sát, còn nguyên nhân cái chết của Tang Nam Nam và Tần Ngọc Mai không nghi ngờ gì nữa là do La Gia Hải gϊếŧ. Trên người Tang Nam Nam có nhiều vết dao đâm, còn Tần Ngọc Mai thì cũng chết rất thảm. Nhìn bề ngoài nguyên nhân của cả hai vụ án có thể đều là do thù hận. Nhưng động cơ, nguyên nhân của hành vi gϊếŧ người của hai vụ án ở hai địa điểm khác nhau cuối cùng là gì? Ngoài ra “mùi vị” mà La Gia Hải nhiều lần nhấn mạnh là gì? Nếu như mùi vị ấy là do tình ái, thế thì đầu đuôi câu chuyện sẽ là như thế nào?
Phương Mộc nghiên cứu các biên bản hỏi cung của vụ án. Tài liệu thể hiện rõ, sau khi La Gia Hải quy án đã thừa nhận hết tội lỗi của mình, nhưng kiên quyết không khai động cơ gây án. Điều đó cho thấy La Gia Hải đã quyết tâm chịu chết. Hình phạt của cậu ta chắc chắn là tử hình. Nhưng theo quy định của luật pháp Trung Quốc: Nếu do lỗi lầm của nạn nhân dẫn đến hành vi kích động phạm tội, thì có thể hoãn tội chết. Giả thiết hành vi gϊếŧ người của La Gia Hải chính xác có yếu tố vì tình có thể được xem xét thì trên thực tế, cậu ta đã vứt bỏ cơ hội cuối cùng để được miễn tội chết.
Muốn tìm ra chân tướng sự việc từ miệng của một kẻ quyết tâm tìm đến cái chết là một việc rất khó, nhưng Phương Mộc vẫn định thử một phen xem sao, ngoài ra giữa anh và La Gia Hải cũng đúng là có hẹn từ trước.
Tất cả những vật chứng có liên quan đến vụ án đều được chuyển về Sở công an thành phố C, trong đó bao gồm cả hai thi thể nạn nhân. Hôm yêu cầu La Gia Hải đến nhận diện thi thể, Phương Mộc cũng có mặt. Anh đứng trước cửa phòng khám nghiệm. Từ xa đã nhìn thấy La Gia Hải được hai cảnh sát dẫn đến từ đầu hành lang.
La Gia Hải bước loạng choạng, chân nam đá chân chiêu, bởi vì cậu ta bước đi quá vội, cổ chân lại bị đeo một sợi xích to. Cậu ta vừa đi vừa vươn cổ ra, thần thái lo lắng, khi đi đến cửa phòng để xác, những giọt nước mắt đã rơi xuống.
Cậu ta nhìn Phương Mộc, môi run cầm cập, hình như muốn nói điều gì đó cảm ơn.
Phương Mộc thấy hơi ngượng, thực ra anh không hề thực hiện lời hứa với La Gia Hải, để cậu ta đến tạm biệt Thẩm Tương. Hôm nay chỉ là việc công, cho cậu ta đến nhận diện nạn nhân. Nhìn thấy hai cảnh sát đẩy La Gia Hải vào phòng khám nghiệm, Phương Mộc nói: “Lát nữa, sau khi nhận xác xong, trong điều kiện đảm bảo không hủy hoại thi thể, hãy để cậu ta được đứng lại một lúc vậy.”
Rất nhanh, tiếng khóc buồn bã, tan nát cõi lòng vọng ra từ trong phòng khám nghiệm. Người cảnh sát đã rất nể mặt, 15 phút sau, La Gia Hải hai mắt đỏ hoe mới bị đưa ra, trên mặt thể hiện sự pha trộn giữa sự tiếc thương và sự nhẹ nhõm như trút được gánh nặng.
La Gia Hải lấy mu bàn tay lau mũi, đi thẳng đến trước mặt Phương Mộc, nói: “Chúng ta cần nói chuyện.”
Phương Mộc nhìn cậu ta chằm chằm mấy giây rồi nói: “Được!”
“Nhưng tôi có một điều kiện.”
Phương Mộc gật gật đầu: “Cậu nói đi.”
“Khi chúng ta nói chuyện không được có người thứ 3, cũng không được ghi âm hoặc quay phim. Còn nữa, nội dung câu chuyện sẽ không được cho ai biết.”
“Được, điều này không khó.”
Để loại trừ những lo lắng không cần thiết của La Gia Hải, Phương Mộc không đến phòng thẩm vấn mà sắp xếp cuộc nói chuyện ở một phòng họp nhỏ ở tầng 3. Lúc đang chờ thang máy tại đại sảnh tầng 1, khi thang máy đang mở ra, anh nghe thấy phía sau có tiếng bước chân vội vã.
“Đợi một chút!”
Một người dáng vẻ trung niên xách một cái cặp tài liệu vội vã bước tới Phương Mộc cho rằng người này cũng muốn vào cùng liền đưa tay ra ấn nút dừng trên thang máy.
“Xin hỏi cậu có phải là La Gia Hải không?” Người nam trung niên ấy không vội vã bước vào thang máy mà lại hỏi thẳng La Gia Hải.
“Đúng vậy, anh là...” La Gia Hải có vẻ ngạc nhiên.
Người đàn ông đó thở phào, lấy tay lau mồ hôi trên mặt rồi lôi từ trong cặp ra một tờ công văn của văn phòng luật sư: “Tôi là Luật sư Khương Đức Tiên, người của văn phòng luật sư Hằng Đại. Tôi nghe nói đến vụ án của cậu, hy vọng được làm luật sư biện hộ cho cậu.”
Hóa ra là luật sư đến xin tác nghiệp. Phương Mộc vừa bực vừa buồn cười, đồng thời cũng thấy hơi ngạc nhiên. Con người này anh đã nghe tên tuổi. Khương Đức Tiên là luật sư nổi tiếng ở thành phố này. Những vụ án anh ta thụ lý không xuể, sao lại mất thời gian chủ động tìm đến một vụ án nhỏ thế này nhỉ?
Trong giới luật sư có quy định bất thành văn thế này: Những luật sư mới vào nghề có thể nhận một số vụ án hình sự trong đó có những vụ án liên quan đến tội tử hình, hy vọng biện hộ thành công sẽ đánh bóng được tên tuổi. Còn Khương Đức Tiên thì từ lâu đã không cần phải dùng đến phương pháp này để được nổi danh.
La Gia Hải cười đau khổ: “Không cần đâu, tôi không yêu cầu luật sư.”
“Cậu có yêu cầu.” Giọng Khương Đức Tiên rất kiến quyết. “Căn cứ vào quy định của bộ luật hình sự thì những vụ án liên quan đến tử hình nhất định phải có luật sư...”
“Tử hình” - hai từ này như kí©ɧ ŧɧí©ɧ Gia Hải, mặt cậu tối sầm lại. “Xin lỗi! Tôi không yêu cầu. Tôi cũng không có tiền để trả cho anh.”
“Không. Hoàn toàn không mất bất cứ loại phí nào.” Khương Đức Tiên vội vàng nói: “Tôi sẽ biện hộ miễn phí cho cậu. Hãy tin tôi, tôi có thể bảo toàn tính mạng cho cậu.”
“Không cần!”
“Hãy cho mình một cơ hội, anh bạn ạ. Hãy nghĩ đến gia đình của cậu, nghĩ đến bạn gái...”
Phương Mộc thấy nghi ngờ về sự tu dưỡng nghề nghiệp của Khương Đức Tiên, thảo luận với một người gần như sắp buộc phải chết về người nhà và tình thân rõ ràng là đã xát muối vào vết thương của cậu ta. La Gia Hải cũng vì chịu sự kích động này nên mất hết cả lý trí.
“Cút!”
Cậu ta lao về phía Khương Đức Tiên nhưng vì quên mất sợi dây xích ở cổ chân nên vừa lao lên được một bước đã ngã quay xuống đất. Khương Đức Tiên sợ quá lùi lại mấy bước, mặt trắng bệch.
Hai cảnh sát chịu trách nhiệm dẫn giải La Gia Hải vội vàng giữ chặt lấy cậu ta. La Gia Hải vừa vùng vẫy vừa hét lên: “Cút, cút ngay! Đừng tưởng có thể lấy chúng tao làm công cụ mua danh cho mày... cút!” Nhìn bộ dạng này cứ như thể muốn cắn cho Khương Đức Tiên một miếng mới hả giận.
Mấy cảnh sát khác nghe tiếng vội chạy đến giúp đỡ, nhìn thấy một cảnh sát móc trong người ra một chiếc dùi cui, Khương Đức Tiên nhảy đến kêu to: “Tôi cảnh cáo các anh, không được dùng vũ lực với đương sự của tôi. Nếu không...”
Phương Mộc vừa buộc người cảnh sát cất dùi cui đi vừ không khách khí đẩy Khương Đức Tiên ra: “Cậu ta không phải khách hàng của anh, hãy im mồm đi!”
La Gia Hải nhanh chóng bị khống chế, một cảnh sát giữ chặt vai hắn, ngẩng đầu lên nói với Phương Mộc: “Xin lỗi đồng chí Phương Mộc, tôi thấy phải đưa cậu ta về thôi.”
Thực ra không cần anh ta phải nhắc, Phương Mộc cũng biết cuộc gặp gỡ hôm nay thế là hỏng bét rồi. Anh bất giác gật đầu ra hiệu đồng ý đưa La Gia Hải về phòng giam.
Nhìn theo La Gia Hải bị hai cảnh sát dẫn về phía sảnh chính, lúc quay người lại, Phương Mộc thấy Khương Đức Tiên cũng đang đi về phía cổng. Hình như cảm thấy Phương Mộc đang nhìn mình, anh ta ngoái đầu lại. Bốn mắt gặp nhau, Phương Mộc nhận thấy một vẻ mặt chưa kịp tan biến trong mắt Khương Đức Tiên. Ngay sau đó đôi mắt ấy lại lấy lại vẻ lạnh lùng mang tính nghề nghiệp.
Phương Mộc nghĩ tiếp tục ở lại phân cục cũng không giải quyết được vấn đề gì, anh cũng đi ra cổng. Đang đi qua cổng chính thì nhìn thấy một chiếc ô tô Audi A6 chạy vụt qua trước mặt. Người ngồi sau vô lăng chính là Khương Đức Tiên. Chiếc xe giống như một con cá mập dũng mãnh lao nhanh vào dòng xe đang cuồn cuộn giữa thành phố. Phương Mộc cất tiếng thở dài rồi bước về phía chiếc xe Jeep của mình.
Lên xe, khởi động máy rồi nhưng Phương Mộc vẫn không đạp chân ga, anh phát hiện mình đang nghĩ đến ánh mắt của Khương Đức Tiên. Đó là một ánh mắt rất hiếm thấy trên mặt một người làm nghề luật sư.
Đó chính là sự bi thương.