Chẩm Sơn Hà

Chương 1: NGỌN NÚI CẰN CỖI

Chuyển ngữ: Longuevie (Sao)

Beta: Mây

*

Ở phía nam Hiệp Châu và phía đông Mai Xuyên, có một ngôi làng nọ gọi là thôn Mậu, người sống trong thôn đếm đi đếm lại chưa đầy một trăm hộ gia đình. Nhưng kể từ khi nơi đây bắt đầu xây một cái chợ, các sản vật ở miền núi phía tây được chuyển đến, dân cư từ từ đông lên, tạo thành một thị trấn nhỏ. Thôn Mậu không tính là phồn hoa, nhưng trong phạm vi trăm dặm, khắp nơi đều là đồi núi, đất đai cũng chẳng có mấy, và cách không xa là thành Tà Khê tấp nập, nên người miền núi muốn trao đổi hàng hóa luôn phải đến thôn Mậu. Trong mắt những đứa con nít gần đấy, thôn Mậu là một trong những nơi náo nhiệt nhất.

Nhĩ Đông cũng từng muốn tới thôn Mậu. Y biết đến sự tồn tại của thôn Mậu đều là nhờ cái miệng của lão tiều phu, còn biết thêm là nơi đó có những cửa hàng kéo dài cả trăm mét, sản vật núi rừng, hàng hải sản không thiếu thứ gì, nếu như hôm nào may mắn còn có thể gặp được những món đồ khác quý hiếm hơn.

Nhưng Nhĩ Đông không được đi, chỉ mới cùng lão tiều phu nói chuyện một lúc, y đã bị sư phụ phạt quỳ một đêm, quỳ gối trên bậc thềm đá lạnh như băng ở sân trước. Đầu gối nhức nhối mấy ngày, đau đến nhe răng trợn mắt, từ đó y không dám nói muốn đi thôn Mậu nữa.

Sư phụ đối xử với y không hề hà khắc, còn có thể coi như khá thoáng, ngay cả khi Nhĩ Đông cong mông xới đất đào giun, sư phụ cũng không đoái hoài đến y, chỉ khi nào lộ ra tâm tư muốn xuống núi y mới phải nhận hình phạt.

Xung quanh thôn Mậu là những dãy núi, cách đó mười dặm có một ngọn núi vô danh. Núi này rồi núi kia nào có gì khác nhau, sau mùa đông lạnh lẽo, những ngọn cỏ dại ngả mình trong bóng mát cũng sẽ chết hết. Trên núi còn có một ngôi nhà bằng làm bằng trúc, giống như gian nhà nhỏ của những người sống dưới núi, một gian chính, hai gian chái và trước sau đều có một khoảng sân.

Nước mưa trên núi tích tụ lại thành một dòng suối nhỏ, uốn lượn chảy ngang sân sau. Sân sau chưa được tu sửa, nhìn qua trông hơi khó coi một chút. Trong sân có trồng một cây hoa đào, cành thì nhiều mà hoa lại chẳng có mấy, chỉ có một vài nụ hoa chớm nở trên cành, trông gầy guộc, đáng thương vô cùng.

Dưới gốc cây có một thiếu niên đang nằm, thân hình của y chẳng khác gì thân cây đào, đơn bạc đến đáng thương, sắc mặt trắng bệch, màu môi tái nhợt như cánh hoa đào bị mưa đông thấm ướt mấy ngày. So với những thiếu niên cường tráng với làn da ngăm đen dưới núi, y nhìn nhỏ tuổi hơn rất nhiều, cùng lắm chỉ cỡ mười lăm, mười sáu tuổi. Trên cái cổ mảnh khảnh có đeo một chiếc vòng bạc, tuy không buộc với khóa trường sinh nhưng cũng đủ để khiến thiếu niên trông bé nhỏ hơn rất nhiều.

Nhĩ Đông xới đất dưới gốc cây đào, cả người mệt lả, mồ hôi đổ như thác, thế là nằm ngay dưới gốc cây ngủ một giấc. Một chiếc lá khô từ trên hoa đào chao đảo rơi xuống, tình cờ rơi vào chóp mũi y, cơn ngứa làm cho y hắt hơi một cái, lập tức tỉnh lại từ cơn mộng mị.

Cây hoa đào cành lá xum xuê, cành nào cành nấy đều toàn là hoa hóa thành bọt nước, nhưng in vào đáy mắt y vẫn cứ là một bụi đào nhỏ gầy. Gầy như vậy, đừng nói tới việc là cây dễ chết, có khi còn sống không qua nổi mùa đông này cũng nên.

Nhĩ Đông thở dài, nhặt lên mảnh lá khô, rồi đặt chiếc lá lên che kín mắt trái.

Bầu trời xám xịt, lá héo khô.

Cảnh tượng như vậy y nhìn tới nhìn lui cũng đã mấy năm, kể từ khi sinh ra quanh đi quẩn lại cũng chỉ nhìn mỗi cái sân này, chưa từng xuống núi lấy một lần, cũng rất ít khi nhìn thấy người sinh sống ở đây. Nếu như không phải tự dưng lại gặp một lão tiều phu đến xin nước, nghe lão kể về thôn Mậu huyên náo khắp nơi đều là của hiếm vật lạ thì có lẽ y sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nhìn ra thế giới ngoài kia.

Tiếc là sư phụ không cho.

Nhĩ Đông thở dài, ngẩng đầu nhìn tán cây đào.

Cái cây không biết nói này như là một người bạn, một nửa đời người của y, Nhĩ Đông hỏi sư phụ làm sao để nuôi lớn nó biết bao lần. Sư phụ chỉ hời hợt nói một câu: "Thăng trầm có mệnh."

Nhĩ Đông chờ cây đào này lớn lên suốt một năm trời nhưng cuối cùng nó vẫn chỉ nở lác đác vài bông đào, nụ hoa vừa mỏng vừa nhỏ, chưa nở rộ thành bông đã bị gió đông lạnh lẽo cuốn đi mất.

Nhĩ Đông đi làm phiền sư phụ, sư phụ bị y quậy cho khó chịu, đành phải chỉ y vài cách nuôi trồng cây. Y coi mấy cái biện pháp kia như bảo vật, mỗi ngày tỉ mỉ chăm sóc cây đào. Nhưng năm sau đã là đầu xuân rồi, mà cây đào ngày xưa vẫn giống hệt cây đào của hiện tại.

Nhĩ Đông nghĩ tới nghĩ lui cũng không biết bản thân đã làm sai chỗ nào, y không tin là cách của sư phụ không có hiệu quả, chỉ có thể tự trách bản thân mình không chuyên tâm, chưa đủ hăng hái.

Ở trong lòng y, sư phụ là cả một vùng trời, tất nhiên, so với trời đất còn quan trọng hơn. Lời của sư phụ chỉ có đúng không có sai, việc không cho y xuống núi... cũng đúng luôn.

Dưới núi thì có gì mà hay ho chứ, chẳng qua là có nhiều người hơn, nhà có nhiều người ở hơn, người ta cãi nhau cũng nhiều hơn, phố phường rộng hơn, đi xa mệt mỏi... Nhưng mà, trong lòng y vẫn có một chút xíu xìu mong muốn được thấy nơi đó, dù chỉ là được đứng ở một nơi xa ơi là xa mà ngắm nhìn.

"Nhĩ Đông." Một người đàn ông khoác lên mình bộ y phục màu lục lam đứng dưới mái hiên gọi tên y.

Nhĩ Đông đáp một tiếng, phủi bụi đất trên người thật nhanh rồi chạy đến bên người sư phụ như một chú cún con. Người đó không để ý đến khuôn mặt của y bây giờ bẩn như một con mèo hoa, hắn hờ hững quay người, từ sân sau ra sân trước. Nhĩ Đông theo chân hắn, bước chân của sư phụ lớn hơn y rất nhiều nên y phải bước nhanh một chút mới đuổi kịp.

"Sư phụ, hôm nay làm gì vậy ạ?"

Hắn không đáp lại y.

"Người muốn nấu rượu sao? Năm ngoái rượu thơm quá, năm nay người có nấu lại không?"

Nhĩ Đông nói liên miên, nói không ngừng. Người đó bị mồm mép của y chọc tới phiền, liếc y một cái. Lúc này, y mới dùng hai tay che miệng, ra hiệu không nói chuyện nữa. Nhưng mới đi được vài bước miệng đã không khép lại được.

Nhĩ Đông nhìn cái vườn trồng đầy thảo dược, hỏi: "Sao lại phải trồng cỏ vậy ạ? Con cũng đâu có ăn được."

Người nọ khiển trách: "Cẩn thận lời nói của mình."

Nhĩ Đông đã luyện được cách nhìn biểu cảm của sư phụ mà sống. Biết hắn không giận, y cười hì hì: "Con nói thật, chi bằng chúng ta trồng mấy loại cây có thể cho ra quả đi có được hơn không."

Người không để tâm việc y đùa giỡn, trả lời: "Tự căn khoảng đất, cây ăn quả mọc lên rồi sẽ chóng chết vì không gian hẹp."

"Con biết mà, con trồng cỏ đã mấy lần rồi, người thấy con trồng cây cỏ nào mà nó chết bao giờ chưa?"

"Là cây thuốc." Sư phụ nhíu mày nhìn y.

"Lớn rồi trông có khác gì nhau đâu," Nhĩ Đông nói xong liền vội vã đổi giọng, "Người yên tâm! Yên tâm đi, cứ để con lo."

Sư phụ dặn dò vài câu, tạm biệt y xong, sau đó vào trong nhà. Nhĩ Đông nhìn một đống thảo dược, gãi đầu một cái rồi cúi người đi làm việc.

Thật ra, y còn muốn nói chuyện với sư phụ nhiều hơn vài câu nhưng sư phụ mãi không thèm để ý đến y, phải chăng có lẽ vì y quá nhiều chuyện hoặc tính tình sư phụ quạnh quẽ, không thích nói chuyện với người khác. Nhưng y chỉ có mỗi mình sư phụ để nói chuyện cùng, trong gian nhà này, người duy nhất có thể đáp lại lời y là sư phụ. Dù cho y có nói tận mười câu, tám câu mà sư phụ chỉ trả lời có mỗi một câu, Nhĩ Đông cũng đã cảm thấy hài lòng rồi, vì còn hơn là tự kỷ với thỏ rừng và cây hoa đào.

Nhĩ Đông xới đất ở sân trước, khi đặt cái xẻng xuống đất, mồ hôi đã tuôn ra như suối, người mệt lả đến mức ngồi trên đất thở hổn hển. Sức khỏe của y không tốt, nếu không phải vì vậy, y đã chẳng trông giống mấy đứa nhóc mười năm, mười sáu tuổi. Nhưng sức ăn thường ngày của y khá tốt, cũng không cần uống thuốc, nếu không phải do sắc mặt nhợt nhạt thì chẳng ai biết được cơ thể y không tốt.

Nhĩ Đông nghỉ ngơi một chút rồi tiếp tục làm việc, chỉ mấy chốc sau, vườn thuốc đã xuất hiện mấy chồi cây xanh mới. Nhưng mấy cây con này không dễ chăm sóc, trong một hai tháng tới lại còn phải tưới nước và xới đất cho bọn chúng. Dù sao cũng là nhiệm vụ mà sư phụ giao cho y và Nhĩ Đông luôn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Hiếm có ai ở cái tuổi còn xanh như y lại có thể để tâm vào một công việc nhàm chán như thế này.

Trồng xong vườn thảo dược, Nhĩ Đông vui vẻ đi vào nhà tìm sư phụ. Sư phụ sẽ không bao giờ ban thưởng cho y, thậm chí ngay cả một câu khích lệ cũng không. Dù đã biết kết quả từ lâu, nhưng y vẫn không can tâm, rồi rốt cuộc chỉ biết thất vọng quay về.

Sư phụ đang ở trong phòng đọc sách, gian phòng kia gần như trở thành thư phòng của sư phụ. Giá sách chiếm hết hai bức tường lớn, sách thì lắp đầy mọi chỗ trống trên giá. Sư phụ không cấm y đọc sách, nhưng nhìn chi chít toàn chữ là chữ, y không khỏi đau não. Do vậy, y chỉ mới đọc được một lúc mà đầu óc đã quay mòng mòng.

Tranh minh họa trong sách thì lại khá thú vị, trong tranh họa một người, trên thân toàn là mấy cái kim li ti. Y nhìn thôi còn thấy đau giùm, song y cũng thích thú nheo mắt tìm vị trí huyệt đạo trong tranh. Chẳng qua Nhĩ Đông không có hứng thú đọc mấy thứ này, nhiều lúc y tự hỏi tại sao sư phụ có thể ngồi hết hai canh giờ đọc những cuốn sách đó. Đối với y, thà đi ra sân sau bắt tôm bắt tép ở dòng suối nhỏ còn hơn ngồi đọc sách, cho dù y đã bắt sạch tôm ở đấy rồi.

"Sư phụ!"

Người để sách xuống như thể không có kiên nhẫn lắng nghe giọng nói đầy sức sống của Nhĩ Đông, mặt lạnh như băng.

"Con làm xong rồi. Lần này còn làm nhanh hơn lần trước nữa đó ạ!"

Sư phụ nghe xong thì cầm sách lên đọc, ngay cả một ánh mắt dành cho y cũng không có.

Nhĩ Đông đã quen thuộc với sự lạnh lùng của sư phụ từ lâu, y tự nhiên di chuyển cái băng ghế rồi ngồi xuống, không chớp mắt mà nhìn chằm chằm người nọ. Bất kể nhìn bao lâu, y vẫn cảm thấy sư phụ trông rất đẹp trai.

Kỳ thật, kể từ lúc bắt đầu có ký ức, Nhĩ Đông chưa từng gặp qua mấy ai. Tuy hiểu biết của y về thế giới này không ít cũng không nhiều, nhưng đôi lúc y cảm thấy ngạc nhiên về bản thân, không biết rằng những nhận thức ấy từ đâu mà có. Nghĩ tới nghĩ lui mãi mà không có được đáp án, phải chăng nó là những mảnh vụn ký ức từ kiếp trước?

Người nọ bị ánh mắt nóng như lửa của y làm cho khó chịu, hỏi: "Muốn gì?"

Nhĩ Đông nghe thấy hắn đáp lại, mặt mày trở nên hớn hở. Y vừa mới nghĩ ra phương pháp này để thu hút sự chú ý của sư phụ, quả nhiên là có hiệu quả. Sư phụ không muốn thưởng cho y, vậy thì y ngồi xổm ở trước mặt sư phụ, bày ra vẻ mặt vô cùng đáng thương mà nhìn người. Đôi mắt kia hệt như mắt cún con, thật dễ lừa người. Người đàn ông đó bị y nhìn chằm chằm đến phiền, bèn hỏi y muốn thưởng gì.

"Cái bánh đậu mà cửa hàng kia gói bằng lá sen ấy sư phụ ơi." Nhĩ Đông cười thật tươi, nói chuyện mà cứ như đang lột vỏ đậu, ngắt giữa chừng rồi mới tiếp tục, "Cái bánh đó gói bằng giấy dầu không có ngon tẹo nào, con sợ ăn vào sẽ bị..."

"Im miệng." Sư phụ day day giữa hai hàng lông mày, phất tay một cái, ra hiệu y mau đi ra ngoài.

Nhĩ Đông đạt được mục tiêu bèn chạy ra khỏi phòng như một làn khói.

Người đó ngẩng đầu lần thứ hai đã không còn thấy cái bóng của thiếu niên ở đâu nữa. Nhĩ Đông chưa bao giờ xuống núi, nhưng sư phụ thì khác. Chẩm Hàn Sơn thỉnh thoảng sẽ đến thôn Mậu đặt mua vài món hàng hóa, đi qua đi lại hết cả một ngày.

Chiếc bánh đậu mà Nhĩ Đông hằng mong muốn cuối cùng cũng ở trong tay y rồi, khi đó đang là chạng vạng. Y nâng món điểm tâm trong tay lên ngửi, mùi đậu xanh thơm ngọt vương vấn quanh mũi, xen lẫn hương lá sen thơm ngào ngạt. Gỡ lá sen ra, chiếc bánh ngọt màu xanh nhạt kết thành một bông hoa năm cánh, hình dạng ngay ngắn, miếng nào miếng nấy cũng hoàn chỉnh. Bánh đậu không chịu được sự va đập, chắc hẳn sư phụ đã rất cần thận đem điểm tâm xếp bánh thành từng hàng, do vậy những chiếc bánh đậu này mới có thể giữ nguyên hình dạng ban đầu.

Nhĩ Đông thèm đến nhỏ dãi, nhưng y lại không vội vã mà nhét một miếng vào trong miệng. Y hào hứng chạy đến trước mặt sư phụ, giơ chiếc bánh lên: "Bánh đậu ngày hôm nay thơm lắm sư phụ ơi."

Chẩm Hàn Sơn nghe tiếng ngẩng đầu lên.

Thiếu niên vừa bước vào cửa, nước da tái nhợt có chút ửng đỏ.

"Tự ăn đi."

Nhĩ Đông cười nói: "Ăn một miếng thôi mà, con không thể ăn hết chiếc bánh ngọt này đâu."

Chẩm Hàn không thoải mái với y, mặc cho Nhĩ Đông bẻ một miếng bánh nhỏ đưa đến. Nhĩ Đông cẩn thận chọn một miếng bánh đậu có hoa văn đẹp nhất, nhẹ nhàng đưa đến bên miệng sư phụ. Cặn bánh được lòng bàn tay của y đỡ lấy, không có vụn nào rơi trên trường sam màu xanh của người.

Mắt thấy sư phụ cũng không có ghét hành động đó, Nhĩ Đông cười nhét mấy miếng bánh nhỏ vào miệng, một bên má nhô lên thành một cái bánh bao nhỏ. Một gói bánh đậu nhỏ bé dường như cũng khiến những giấc mộng của Nhĩ Đông trở nên ngọt ngào hơn, làn gió lượn lờ quanh núi ban đêm cứ tựa hạt đậu xanh và hương lá sen.

Nhĩ Đông không dám nói cho sư phụ biết rằng thứ y muốn không phải là những chiếc bánh thơm ngọt, mà là xuống núi ngắm nhìn thế giới ngoài kia. Nhĩ Đông không biết lý do tại sao sư phụ không cho y xuống núi, một bụng y toàn là sự nghi hoặc. Nhưng y không dám đi hỏi sư phụ, bởi vì một khi đã liên quan đến vấn đề này, biểu cảm của sư phụ không khác gì một chiếc lá khô bị lớp tuyết mỏng mùa đông che kín. Y không thể làm gì khác hơn là ngồi cạnh cây hoa đào lầm bầm lầu bầu, nói mãi nói mãi, trong đầu cứ liên tưởng đến khung cảnh dưới núi trông như thế nào.

Mà Nhĩ Đông cũng không ngờ rằng, ước nguyện của y lại được đáp lại nhanh như vậy.

Chẩm Hàn Sơn yên tĩnh ngồi ở trên ghế, không nói một lời. Nhĩ Đông cúi thấp đầu, trong lòng thấp thỏm, không biết mình đã mắc lỗi gì. Mỗi khi y mắc lỗi, sư phụ luôn bày ra bộ dạng này, mặt không có cảm xúc, ánh mắt lạnh như băng rơi trên người y.

Chẳng lẽ là ngày hôm qua lúc đang đào giun đất, y có nhổ một vài cây thuốc đã bị sư phụ phát hiện rồi sao? Nhưng rõ ràng y đã đem mấy cái cây đó đi chôn rồi mà, lại còn giẫm giẫm lên đất, chắc chắn không có tiếng động nào. Hay có phải vì hôm qua y lén chặt một gốc tre? Nhưng khúc tre bị chặt đã bị y chôn trong sân sau, chẳng lẽ nó lại bén rễ nên bị sư phụ phát hiện?

Nhĩ Đông cắn rứt lương tâm, ngẩng đầu lên nhìn vào đôi mắt của sư phụ.

"Năm mới sắp đến, ngươi đi cùng ta tới thôn Mậu một chuyến."

Nhĩ Đông ngẩn người: "Phải xuống núi ạ? Trời thì toàn tuyết, đường núi trơn trượt, đi lại hẳn là bất tiện lắm." Y nói đến một nửa, đột nhiên sửng sốt, nửa ngày trôi qua mới mở miệng nói, "Con cũng đi ạ?"

"Ừ." Sắc mặt của hắn vẫn y nguyên như vậy.

Nhĩ Đông cả người cứng đờ: "Không phải người không cho con xuống núi sao ạ?"

Chẩm Hàn Sơn lộ ra một nụ cười nhàn nhạt: "Không muốn đi?"

Nhĩ Đông phủ nhận ngay lập tức, nhưng thái độ của sư phụ lúc này khiến y hơi bối rối. Cho đến tận bây giờ, y và sư phụ chỉ quanh quẩn ở khoảng sân nhỏ trước nhà trên sườn núi. Vào đầu tháng hoặc nguyệt tuần, sư phụ sẽ xuống núi mua một số nhu yếu phẩm thường ngày, nhưng y vẫn chỉ có thể quanh quẩn ở trước sân.

"Nếu muốn đi, trước tiên, ngươi mau trả lại mấy môn đồ mà ngươi trộm từ giá sách cái đã." Chẩm Hàn Sơn lạnh lùng nói.

Nhĩ Đông bị nhìn chằm chằm đến không thở nổi, cúi đầu nói: "Sư phụ, người biết con không thích đọc sách mà."

"Bộ tứ phương."

Nhĩ Đông nghe xong, sắc mặt trắng bệch lại càng tái nhợt hơn. Đúng là y đang giấu quyển sách đấy thật.

Đó là cuốn sách duy nhất không làm Nhĩ Đông đau đầu, nó ghi lại địa lý và phong tục khắp bốn phương, từ nơi Bắc vực đóng băng suốt ngàn năm, cho đến vùng biển Châu Nam rộng lớn và nơi làm tổ của hàng vạn con chim. Mặc dù đây chỉ là cuốn sách ghi lại những gì có từ đời trước truyền lại cho đời sau, đa số chỉ là trí tưởng tượng của tổ tiên, nhưng Nhĩ Đông vẫn không thể ngừng nghĩ về non sông ngàn dặm tươi đẹp ngoài kia.

"Nhĩ Đông, ngươi từng hỏi ta, vì sao ta không cho ngươi tiếp xúc với mọi thứ bên ngoài ngọn núi này," Chẩm Hàn Sơn thấp giọng nói, "Lãnh thổ rất rộng lớn, Tây có Đô Quảng, Đông có Tà Khê. Nhưng, từ đây đến dưới chân núi, nhiều nhất thì có Mậu thôn, đó là tất cả những gì ngươi có."

Thanh âm của sư phụ lạnh lẽo. Nhĩ Đông không khỏi run lên, mím lại đôi môi trắng bệch, thật lâu sau mới hỏi tại sao.

"Hỏi mệnh đi."

Sư phụ đứng lên, bỏ lại Nhĩ Đông một mình trong căn phòng không người.