Quái Vật Ở Berlin

Chương 40: Theo dấu vết

Herbert đứng thẳng người.

"Vậy đấy." Cậu ta hít mũi. "Đêm nay sẽ là đêm quyết định. Chúng ta sẽ trang bị đầy đủ và truy cho ra bằng được hắn. Asmodeus thật sự đã có thể đang giữ Anze và chúng ta không thể liều lĩnh tay không đối đầu hắn được."

"Chúng ta chia nhau ra." Ludwig tiếp lời. "Em sẽ đi với bố. Herbert đi cùng Sarah và Alfred. Bố sẽ truyền tin đến Herbert một khi tìm được bất kỳ manh mối nào."

"Và ngược lại." Herbert nói thêm.

Và họ cùng lên đường.

Bây giờ, không cần dùng đến một phương tiện di chuyển bình thường nào nữa, Herbert cùng hai người đi chung bay về phía nam của Berlin, nơi họ sẽ gặp mặt người bạn cũ của Herbert, để hỏi thăm càng nhiều thông tin càng tốt về Anze Afanas hay Asmodeus Havu, với Sarah lẫn Alfred víu chặt vào người Herbert vì cả hai vẫn chưa thể bay được. Trong khi đó, Ludwig buộc dây vào Lilith và lôi nó ra ngoài. Trước ánh nhìn thắc mắc của bố mình, gã giải thích:

"Lilith từng là chó nghiệp vụ. Nếu nó đi cùng, biết đâu nó có thể giúp chúng ta tìm lại được chủ nó."

Johannes gật đầu. Ông nói, "Bố vừa điện cho văn phòng ông ấy. Họ nói ông ấy đã ra về cách đây vài giờ, nên chúng ta sẽ tìm ở đó trước. Hy vọng chúng ta có thể tìm được ít chứng cứ từ nơi mà lần cuối người ta trông thấy Anze."

"Chúng ta cùng bay đến đó. Để con ôm Lilith cho."

Vào thời điểm này trong đêm, tòa nhà văn phòng vẫn đang tất bật với công việc không dứt. Tuy vậy, sân trước và bãi xe lại vắng người, nơi không có gì có thể được trông thấy ngoài đèn đóm và xe cộ. Ludwig nheo mắt khi họ đáp xuống dưới một bóng cây to. "Đó có phải là xe của Anze không?" Gã chỉ.

Chiếc Bentley đen quen thuộc chẳng có người, cũng không có dấu hiệu ẩu đả hay trộm cắp. Johannes đứng không yên khi ông nhìn thấy những dấu chân in trên tuyết dẫn đến chiếc xe, nhưng chúng dừng lại giữa chừng, trước khi chúng hướng ra vệ đường ngoài kia, lẫn cùng nó là một cặp dấu chân khác đi theo hình zigzag lạ lùng. Ludwig thở phì và làu bàu trong cổ họng:

"Asmodeus hẳn đã ở đây."

"Không ai đi đứng như rắn thế này cả." Johannes đồng ý, đầy vẻ khinh miệt. Ludwig đập vỡ cửa sổ xe, và "Tuyệt", gã nói, khi gã mò mẫm rồi lôi ra được từ trong xe một chiếc khăn choàng, rồi gã đưa nó cho Lilith. "Nào, chó ngoan, để xem mày có tìm được ông ấy không."

Chú chó chăn cừu thoạt đầu ngúng nguẩy, nhưng vừa ngửi được mùi quen thuộc của chủ nhân mình trên chiếc khăn, nó lập tức chú ý, và nó bắt đầu hít lấy hít để. Thời tiết khắc nghiệt, sương giá lúc này đóng băng mọi thứ còn khủng khϊếp hơn khi họ vừa đặt chân đến Berlin, khiến mũi tất cả tê đi và làm cho Ludwig càng nghi ngờ không biết Lilith có thật sự sẽ tìm được người đàn ông kia hay không nữa.

Tuy vậy, sau ít lâu, Lilith bắt đầu tìm đường đi, dẫn họ ra bên ngoài và men theo vệ đường, và họ sớm hướng về phía bắc.

Trong lúc đó, Herbert, Sarah và Alfred đã đến một quận khu náo nhiệt ở phía nam. Một bầu không khí ấm áp chào đón họ ngay tức thì, và Herbert dẫn tất cả đến một nơi trông như một quán rượu thời Trung cổ. Thật đông đúc, mùi hương của rượu bia và thức ăn mới nấu ngập tràn trong không trung, và với ánh đèn cam dịu của nó, nơi này trở nên tương phản rõ rệt với thành phố hiện đại nhưng lạnh lẽo và ảm đạm bên ngoài.

Herbert nhận ra một bóng người ngay lập tức và cậu ta rảo bước đến gần, vô tư thả người xuống ngồi đối diện họ bên bàn ăn như thể hai người là bạn thân chí cốt. Cậu ta ra hiệu cho hai người còn lại nhanh chóng nhập hội, nói:

"Xin giới thiệu người bạn đáng tin cậy của anh từ thời còn đi lính, Toa! Cô ấy đã giúp chúng ta rất nhiều đấy!"

Người phụ nữ được gọi tên liền vén mũ trùm nhìn lên và khoát tay ra hiệu cho tất cả bọn họ cùng ngồi xuống đối diện mình, một nụ cười rộng thân thiện nở trên gương mặt. "Rất mừng được gặp lại cậu sớm như vậy, Herbert, và cũng rất lấy làm vui được làm quen với hai người! Nào, ngồi xuống đi."

Sarah và Alfred lần lượt bắt tay cô ấy và yên vị bên cạnh Herbert, trước khi cậu ta đào thẳng vào vấn đề:

"Tôi e rằng lần này chúng tôi chỉ có thể tạt ngang qua thôi, cô có thông tin gì liên quan đến chuyện tôi nhờ chưa?"

Khuôn mặt Toa sa sầm và cô ấy thở dài, lắc đầu đáp, "Tôi e rằng mọi chuyện không dẫn đến đâu. Người của tôi đã tản ra khắp Berlin để thu thập manh mối, nhưng đến giờ tôi chỉ có thể biết được tên Asmodeus mà cậu nói không có huyết đồng hay ai tương tự như vậy cả. Dường như hắn ta hoàn toàn làm việc một mình."

"Hắn từng có một quản gia, thuộc chủng ma cà rồng Carpathia với khả năng trà trộn hoàn hảo giữa loài người. Như tôi có nói với cô, ả chết cách đây vài hôm." Herbert nói. Toa gật đầu:

"Tôi đã cân nhắc đến khả năng những giống loài khác có thể gọi hắn là tổ phụ. Tuy nhiên, cậu có thể tin tưởng tôi rằng ả ta là huyết đồng cuối cùng của hắn tồn tại trong thành phố này."

"Cô có nghĩ ra được khả năng cao hắn sẽ ở những nơi như thế nào không?"

"Theo những thông tin cậu cung cấp cho tôi, thì hắn có vẻ chuộng những nơi heo hút và hẻo lánh hơn là những nơi buộc hắn phải trà trộn giữa loài người. Vì vậy, tôi đã soạn sẵn cho cậu một danh sách những địa điểm bị bỏ hoang của Berlin," cô đưa cậu ta một mảnh giấy, "bao gồm quán rượu Hang Cáo cách nơi này 30 dặm về phía nam, khu điều dưỡng phức hợp ở phía đông theo địa chỉ này, nhà máy hóa chất ở quận Rüdersdorf, và một công viên giải trí không tên ở phía bắc mà tôi cũng đã kèm theo địa chỉ cho cậu ở đây. Tôi đã rà soát quán Hang Cáo chiều nay giúp cậu, nhưng phần còn lại, tôi e cậu phải tự mình kiểm tra."

Herbert vừa nheo mắt vừa đọc mảnh giấy Toa đưa mình. Thời gian của họ sắp cạn, và họ không thể đi kiểm tra từng nơi một được. Một tiếng chin chít mơ hồ cắt đứt luồng suy nghĩ của cậu ta và khiến tất cả giật mình, và Alfred vội vã kiểm tra túi xách. Chàng trai trẻ trố mắt ngạc nhiên.

"Pip?"

"Anh đem nó theo à?" Sarah lên giọng.

"Anh không có!" Alfred phản đối. "Là nó tự lẻn vào túi của anh ấy chứ!"

"Chúng ta không có thời gian đưa nó về nhà đâu, nên em có thể giữ nó an toàn trong suốt chuyến đi chứ?" Herbert nghiêm giọng hỏi. Alfred gật đầu, đội lên chiếc mũ len:

"Anh cứ tin em. Nhưng em xin phép một phút, bởi em nghĩ mình nên tìm ít thức ăn cho nó trước khi lại lên đường. Em đi nhanh rồi về."

"Được thôi, chỉ cần đừng đi quá lâu đấy." Herbert đồng ý với một nụ cười phớt qua.

"Có một xe bán thức ăn vặt ngay góc đường bên trái, nếu cậu cần." Toa nói thêm vào, vẫy chào Alfred khi cậu ấy lách người qua đám đông. Cậu hét to hai tiếng "Cảm ơn" rồi biến mất, hòa mình vào bóng đêm bên ngoài quán rượu.

Alfred không tốn nhiều công sức tìm ra chiếc xe bán thức ăn để mua ít hạt dẻ nướng cho Pip. Ấy nhưng khi cậu mở túi để đưa nó túi hạt, không may thay, con vật lại vểnh tai lên rồi nhảy khỏi vòng tay cậu, quấn quanh người nó là một tấm thắt lưng dệt bằng vải len mà Alfred chưa từng thấy bao giờ. Cậu còn để ý rằng Pip cũng đang ngậm đôi giày búp bê mà cậu tìm thấy ở nhà vào hôm qua.

Alfred đã chạy. Cậu đuổi theo Pip băng qua những con hẻm chật hẹp của quận khu và cuối cùng dồn nó vào một ngõ cụt. Nó thôi ngay hành vi bất thường của mình khi Alfred nhìn nó, rồi để lộ ra phía sau lưng là một sợi dây chuyền lấp lánh dưới nền đất.

"Mày tìm thấy thứ gì vậy?" Alfred thì thầm với Pip, khi cậu thu về chiếc thắt lưng và nhặt lên sợi dây chuyền. Pip chỉ rên ư ử rồi nhìn cậu. Họa tiết hoa trên cả hai món đồ trùng khớp với nhau, và Alfred tin chúng cùng thuộc về một bộ y phục, chung với đôi giày búp bê nọ. Và cậu lập tức chợt nhận ra rằng mỗi khi cậu tìm thấy một món đồ vật như thế này, nó càng lúc càng theo trình tự từ thấp lên cao, ban đầu là đôi giày để mang dưới chân, sau đó là chiếc thắt lưng để buộc quanh hông mình, và bây giờ, là một sợi dây chuyền quanh cổ. Alfred nhìn chằm chằm đống đồ trên tay mà không tin vào mắt mình. Nếu cậu tìm thấy một món nữa, thì nó chắc hẳn phải là một phụ kiện đội đầu!

Thế giới xung quanh Alfred lại biến đổi. Cậu ngã thụp xuống đất bởi sự giật mình bất chợt, và khi cậu ngước nhìn lên, một chiếc khăn đội đầu đang bị gió cuốn đi trên nền trời đỏ rực. Nhưng không hiểu sao, có thứ gì đánh động trong lòng cậu, bảo rằng cậu phải đi theo nó.

Alfred đứng lên và chạy. Cậu chạy theo chiếc khăn với một mục đích vô hình, cho đến khi gió ngừng thổi và chiếc khăn mắc vào một ngọn cây. Alfred tự chửi thề. Cậu ghét leo trèo quá sức.

Cậu đã chật vật không ít để với được món đồ vật đáng nguyền rủa kia. Cậu nuốt ực khi cành cây rung lên dưới sức nặng lẫn chuyển động của cậu, tiếng răng rắc khiến tim cậu chỉ muốn nhảy bổ ra, và trong chớp mắt, Alfred đã thấy mình ngã phịch xuống đất đau điếng.

"Ui da..."

Alfred vừa ngồi dậy vừa rêи ɾỉ. Thế giới song song này không có mùa màng, và bởi thế, nó không có tuyết, chỉ có cát bụi dưới chân và từng luồng khí nóng rực lúc nào cũng thổi, khiến cho Alfred ê ẩm dọc tấm lưng và quanh hông mình. Thật nhẹ nhõm khi cậu vẫn còn đứng được, Alfred nghĩ. Điều tiếp theo khiến cậu lo lắng là những món vật cậu thu thập đã văng tứ tung trong lúc cậu rơi, càng tệ hại hơn khi lúc này nhìn lại, chúng đột nhiên đã biến mất.

"Thật vô lý." Alfred lầm bầm, rồi quyết định mặc kệ cái bộ y phục chết dẫm kia, rồi cậu nhắm mắt lại để cố gắng quay trở về thế giới của mình. Nhưng lần này khi cậu mở mắt ra...

Chẳng có gì thay đổi.

Alfred có thể nghe tiếng tim mình đang đập thình thịch. Cậu nhắm mắt lại một lần nữa, và, "tập trung, tập trung...", cậu ép mình suy nghĩ, nhưng cứ mở mắt ra, thì cậu lại thấy thế giới vẫn cứ còn mang sắc đỏ, một mình cậu trơ trọi giữa mảnh đất hoang tàn, và những tiếng tru vang vọng từ phía xa khiến cậu chết điếng người và lạnh sống lưng. Alfred nghĩ cậu sắp phát khóc mất. Cậu điên cuồng đảo mắt tìm xem có bất kỳ dấu hiệu của sự sống nào hay không, hay dấu hiệu của một kẻ bất tử như cậu, hoặc có thể là Beghemot cũng được để cậu có thể cầu xin giúp đỡ.

Nhưng cuối cùng, vẫn chỉ có một mình cậu ở đó.

Alfred không khỏi nhớ lại cái đêm cậu lạc mất giáo sư giữa cơn bão tuyết, giữa một vùng đất xa lạ nơi không ai biết cậu là ai và sẽ không ai thèm nhớ đến cậu nếu họ phát hiện cậu bị chôn vùi và chết cóng. Cậu lập tức ngã gục xuống đất rồi ôm lấy thân mình mà run rẩy, ước gì đây chỉ là một cơn ác mộng mà thôi và cậu sẽ lại được thức giấc trên chiếc giường quen thuộc. Cậu ngồi bó gối. Alfred sụt sùi, nhưng cậu không khóc được.

_____________________________________________

Nguồn ảnh: Igor Burlakov.