Lấy được lá của cây báu rồi, Lý Thông hối quân đỡ thây Thạch Sanh dậy, cho hai người giữ đầu và thân cố định với nhau. Sau đó lại sai người múc một chén nước lấy lá Đa ra, mài bét nhừ, thoa vào vết cắt ở cổ Thạch Sanh và bắt tay ấn niệm chơn ngôn, giây phút trong cổ khò khè, chỗ vết thương ấy chảy ra dịch đờm đen nhớt.
Giây lát vết thương lành lặn, Sơn Tinh hướng thinh không hét lớn:
- Chân long ở đâu? Không để linh hồn quy vị, còn đợi đến khi nào?
Chân Long hiện hình, lượn một vòng ở phía trên rồi bỗng chốc há miệng, phun ra một đạo hào quang nhập vào người Thạch Sanh.
Đạo hào quang ấy nhập vào, Thạch Sanh liền mở mắt tỉnh lại, thấy có Lý Thông đứng chầu một bên, ánh mắt tràn đầy lo lắng. Lại thấy ở đài Thông Linh có vị thần tiên đang ngự tọa, lơ lửng trên thinh không.
Thạch Sanh hỏi:
- Ta nhập địa phủ rồi sao?
Lý Thông trầm mặt, quát:
- Thạch Sanh còn không mau lạy Sơn Thánh mà đền ơn cứu ngươi được sống?
Thạch Sanh bấy giờ mới tỉnh hồn, đưa tay sờ cổ chỉ thấy còn ngấn thịt trồi lên, sững sờ hỏi:
- Đại ca, ta bị thanh kiếm kia chém rơi đầu. Làm sao mà sống được?
Lý Thông nói:
- Nhờ lá bùa lúc trước đệ lưu lại ta mời được Sơn Thánh hạ phàm giúp đỡ. Ngài lên cung trăng cầu được một cái lá Đa của Cuội nên mới cứu được đệ đấy.
Thạch Sanh nước mắt chảy ròng, hướng Sơn Tinh bái lạy, nói:
-Tôi mang ơn cứu Sơn Thánh cứu sống, thật là cái ơn tái tạo dầu chết cũng chẳng quên.
Rồi lại hướng Lý Thông quỳ nói:
- Do cái ngu dốt của đệ khiến huynh bôn ba vất vả như thế, ơn này trả sao cho đặng?
Lý Thông cười đáp:
- Hai huynh đệ ta cắt máu ăn thề cùng chung hoạn nạn, chẳng nhẽ trong lúc nguy nan mà bỏ mặc nhau. Cũng do vi huynh đãng trí. Quên nhắc nhở đệ, cái phép trù yểm đó đối ta chẳng dùng được nữa. Nên khiến sự ra thế này, giờ hối cũng chẳng kịp.
Hai huynh đệ nói rồi ôm chầm lấy nhau mà khóc. Một hồi sau, Lý Thông mới đứng dậy, bước tới trước hướng Sơn Tinh thi lễ, nói rằng:
- Sơn Thánh cầu được lá tiên giúp đệ tôi sống lại, cái ơn đấy lớn không sao trả nổi. Nhưng vì tánh mạng của bá tánh đất Hoan Châu, tôi không thể mặt dầy mà có việc nhờ Sơn Thánh ngài giúp đỡ. Ngài ở trên cao cho Thông tôi bái lạy!
Nói rồi quỳ xuống dập đầu bịch bịch liền chín cái.
Sơn Tinh nói:
- Việc ngài định nhờ, tam đệ tôi là Thần Sơn Quý Minh đã tiên đoán được trước. Con Yêu Vật này lại dám khinh tài Tiên Thần đất Nam ta quá, cả gan đặt cái Hung Trận như thế. Dầu có bằm thây nó thành trăm ngàn mảnh, dùng Ngục Hoả thiêu hồn, cũng không đền hết tội nghiệt. Nay Đại huynh ta là Cao Sơn Đại Thánh cùng Thần Sơn Quý Minh đã sang động phủ Gia Ninh ở Phong Châu, cầu thêm Đồ Sơn Thuỷ Thánh hạ sơn cùng nhau phá trận. Chỉ cần chân nhân nói một tiếng, bọn tôi chung tay góp sức. Há không phá nổi cái trận ấy?
Lý Thông mừng rỡ, tạ rồi nói:
- Nhờ thần thông của chư vị, tôi lòng tin mười phần phá được trận này, nhưng vẫn còn thiếu một điều. Bốn con Hung Thú đấy từ thời Viễn Cổ, không e sợ Tiên Thần. Nếu mạo hiểm xông trận, các vị nhiễm phải kiếp khí không về Trời được. Nên tôi có ý, muốn cầu Công Đức linh bảo của chư vị tiên hiền, dùng làm vật áp trận. Xin nhờ Sơn Thánh đến lúc đó đỡ cho một hai lời.
Sơn Tinh gật đầu ưng thuận.
Lý Thông nói rồi đi đến trước đài, thắp nhang niệm thơ:
“Đất Việt ta xưa có Đồng Chung.
Cầu mưa, đuổi tặc, rõ oai hùng,
Văn minh ấy định truyền muôn kiếp.
Một gõ vừa lên, khắp chốn mừng.”
Lời vừa dứt, trời đất nổi lên ba tiếng tiếng oanh minh. Trên thinh không chợt bắn xuống một đạo hào quang sáng chói, chiếu tới Thông Thiên Đài. Lại có muôn chim khắp nơi bay về đảo lượn mấy tầng trời, mặt đất muôn loài nhảy múa, quang cảnh mỹ lệ cực kỳ.
Lý Thông ngước đầu nhìn lên, lại ngâm:
“Văn Lang vốn nước biết làm nông,
Dao Đá mài dùng thật bõ công.
Liềm Đồng tạo ra, gặt vạn thóc,
Ấm miệng dân đói, phúc nhà nông.”
Thơ vừa niệm xong, từ trên tầng trời hạ xuống một vị Tiên Thần, người cao thước tám, mắt hổ, trán rồng, da đỏ như gà chọi. Lại thấy, vị này đầu đội mão Tam Liên, thân khoác Đồng Trụ Tỏa Kim Giáp. Một tay quắp Đông Sơn Cổ Đồng Chung to như cái sọt, một tay khác thì cầm Thâu Mục Đồng Liêm. Oai nghi lẫm liệt vô cùng!
Ánh kim quang tỏa ra từ hai món bửu bối, khiến ba người phía dưới không dám nhìn thẳng, phải lấy tay che mắt đi.
Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh vội sụp xuống bái lạy, hô lớn:
- Chúng hậu nhân Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh bái kiến Hùng Vương.
Nguyên lai, hai món bửu bối đấy là Công Đức Linh Bảo, hấp thụ tín ngưỡng trăm vạn con dân. Lại có công khai phá trí tuệ dân tộc, cải thiện đời sống con người. Bởi thế, Thiên Địa tạo hoá lấy trăm vạn tín ngưỡng chi lực, ngưng luyện mà thành hai kiện Công Đức Linh Bảo. Còn vị kia chính là Hùng Vương Đời thứ nhất, Hùng Đức Công.
Hùng Vương hạ xuống tới đài, gật đầu, cho ba người miễn lễ, rồi nói:
- Các ngươi thỉnh ta đến là có chuyện chi?
Lý Thông nói:
- Hậu nhân Lý Thông bẩm cho Hùng Vương được hay. Số là chúng tôi gặp nạn, bị yêu vật làm phép trù yểm, đã thế nó còn bày cái Hung Trận ở đất Hoan Châu. Khiến đại địa Ô uế, trăm họ lầm than. Nay hậu nhân Lý Thông muốn mượn ngài hai kiện Công Đức Linh Bảo, trấn áp Hung Thú.
Sơn Tinh nói:
- Bọn Yêu Vật này dám bày hung trận, gϊếŧ người đất Nam mình. Thù này không báo, nó lại tưởng Thần Tiên chốn này sợ nó!
Hùng Vương nghe thế cũng giận lắm, từ đời Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân, rồi mấy đời Vua Hùng kế sau, muôn dân trăm họ nơi nào mà không hưởng an lộc phúc, ca múa mừng vui? Há sợ yêu quái quấy phá?
Ngư Tinh Xà đâu? Bị Lạc Long Quân chặt làm ba khúc, yêu thân nát, yêu hồn vong, ngay cả đầu thai chuyển kiếp cũng chẳng được. Quỷ Thụ Yêu đâu? Chặt làm củi đốt, nướng Ngư Tinh rồi. Thế còn Cửu Vĩ Yêu Hồ? Đánh nát một nửa đạo hạnh, nhốt dưới Kim Ngưu Tự năm ngàn năm. Tiền nhân oai hùng như thế, bọn họ lẽ phải nên noi gương học tập?
Vua Hùng càng nghĩ càng giận, hừ lạnh một tiếng rồi mắng:
- Yêu Vật to gan thật! Ta phải đánh cho chúng nát yêu thân! Lại đày vào Trấn Yêu Ngục của cha ta, cho bọn chúng biết thế nào là ghê gớm.
Nói rồi ưng thuận cho mượn bảo trấn yêu.
Lý Thông mừng rơn, lại cho dọn đồ cúng mời chân linh hai vị thần thượng toạ.
Hùng Vương nhìn về đất Hoan Châu, thấy chướng khí mù mịt, sát khí thao thiên. Cho dù lần tay bấm độn cũng không tính ra trận này dáng vẻ thế nào. Bèn quay qua hỏi ba người, Lý Thông tả rõ chi tiết. Giây lâu sau Hùng Vương mới nói:
- Trận này chuyên dùng đối phó Tiên Thần, nó có bốn cổng tuân theo đại khai đại hợp, nếu như không phá tất cả cùng một lúc thì trận bạo người vong. Bây giờ mới chỉ có hai kiện Công Đức Linh Bảo, phải kiếm thêm hai kiện nữa thì may ra mới trấn áp được!
Lý Thông đáp:
- Hùng Vương nói có lý, tôi đây đã nghĩ đến điều đấy. Nhưng đi đâu mà tìm cho ra hai kiện Công Đức linh bảo?
Hùng Vương nói:
- Ta có đứa chắt, tên Lang Liêu. Vào đời Hùng Vương thứ sáu, có công sáng tạo ra bánh chưng bánh giầy làm từ hạt gạo, bánh chưng là thiên, bánh giầy là địa. Hai bánh đấy giúp bá tánh biết cách dùng gạo, sau nó lại dạy dân trồng trọt canh tác. Bởi thế, Thiên Địa tạo hoá lấy tín ngưỡng mà đúc thành một hạt bửu bối chứa Công Đức chi lực. Mặc dù không phải công phạt pháp bảo, nhưng Hung Trận này chỉ cần Công Đức trấn áp. Ta mượn dùng vật ấy cũng được!
Lý Thông cả mừng, hỏi:
- Nếu vậy thì hay quá. Mời Hùng Vương thi pháp.
Hùng Vương ừm một tiếng, vỗ tay vào trống. Xảy thấy ở trên đại địa cây cối như nhảy múa reo vang, một vị tiên thần từ trên mấy tầng mây hạ xuống. Chỉ thấy vị này mặt mày hiền lành, tai dài, cằm rộng, mũi cao, quả là người có tướng phúc hậu.
Lang Liêu đến giữa đài, làm lễ bái kiến Hùng Vương mà nói:
- Tiểu chắt bái kiến ông kỵ.
Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh cũng vội tiến tới làm lễ.
Hùng Vương nói:
-Tiểu chắt, ông kỵ hôm nay gọi ngươi tới là có việc nhờ.
Lang Liêu đáp:
-Ông kỵ cứ việc phân phó, tiểu chắt sẵn sàng phục mệnh.
Hùng Vương nói:
- Đất Nam ta từ thời Kinh Dương Vương đến các đời Hùng Vương, nhân dân khắp nơi an lạc. Yêu quái cho dù gan lớn cũng chẳng dám quấy phá. Nay đến đời hậu nhân, không có bậc tiên hiền phù hộ. Nên yêu vật cả gan làm loạn, nó bày cái Hung Trận ở đất Hoan Châu. Mê hoặc dân của ta, chôn sống người dân của ta, thù này không trả, ta ở trên Cửu Thiên sống yên sao đặng?
Lang Liêu giận mắng:
- Yêu vật thật to gan quá. Tiểu chất mặc dù không biết công phạt chi thuật. Nhưng chỉ cần ông kỵ nói một câu, cho dù liều mạng tiểu chắt cũng không chối từ!
Hùng Vương gật đầu ưng thuận, trỏ tay hướng Lý Thông mà rằng:
- Ở phàm giới có vị chân nhân này, là học trò của Thánh Chèm. Chân nhân biết cách phá trận, bày cho bọn ta. Khốn nỗi Hung trận kia có bốn cổng, cần bốn kiện Công Đức pháp bảo mới áp chế nổi Hung Thú. Ta đã có hai kiện rồi, nay gọi chắt tới là muốn mượn Công Đức Linh Bảo của chắt. u cũng là tạo phước cho con cháu mình một phen.
Lang Liêu nói:
- Chuyện đó có khó gì, Linh Bảo đó chắt mang theo bên người. Nhưng cho dù có Linh Bảo của chắt thì cũng mới chỉ đủ ba kiện. Một kiện nữa không biết ở đâu?
Mấy người đều lặng thinh!
Giữa lúc đấy, phương Đông có ba đạo hào quang bay xẹt tới, là Cao Sơn, Quý Minh cùng Thủy Tinh.
Sơn Tinh thấy huynh đệ mình tới, bụng cả mừng vội đi lên rước bái.
Khi mấy người xuống đến nơi, chào hỏi lễ trước sau đủ cả, Cao Sơn mới thấy ai nấy mặt mày rũ rượi, hỏi ra mới biết chuyện gì.
Quý Minh cười nói:
- Đại ca xem tiểu đệ nói có đúng chăng?
Thấy Quý Minh cười xòa, Sơn Tinh giận mắng:
- Tam đệ chớ vô lễ, các vị tiên hiền không ngại gian truân mà hạ phàm giúp đỡ. Nay gặp khó mà đệ còn cười được ư!
Mấy người khác không nói gì cả, nhưng mặt cũng tỏ ra bất mãn.
Cao Sơn vội can, nói:
- Nhị đệ chớ giận, chẳng qua Tam đệ cá cược với ta một phen. Bảo là Nhị đệ cùng Lý Thông chân nhân ắt cầu đến Hùng Vương cùng Lang Liêu. Bất quá lại thiếu một kiện Linh Bảo mới phá trận được, ta không tin nên mới cá với đệ ấy. Bây giờ nhìn lại quả là thế thật.
Quý Minh nói:
- Đệ cùng với đại ca vì phòng hờ nên quyết định ghé qua chùa Linh Quang, mượn nhờ Thất Thải Ngũ Liên Đăng của Phật Mẫu Man Nương.
Nói rồi hóa phép lấy ra một kiện Linh Bảo, chỉ thấy vật ấy là một đóa sen năm màu, từ trên chảy xuống một dòng thất thải quang mang sáng chói lạ thường.
Lý Thông cả mừng, tiến lên quan sát, hồi lâu sau mới nói:
- Đây là một kiện công đức pháp bảo của Phật Môn, hấp thụ tín ngưỡng dân chúng mà đúc thành, có vật này rồi thì phá trận dễ lắm!
Bấy giờ mọi người đã tập trung đông đủ, Lý Thông mới đem kế phá trận của mình nói ra.
- Cửa Hãm Tiên, nhờ hai vị Cao Sơn, Quý Minh cầm theo Thất Thải Ngũ Liên Đăng, tôi sẽ lệnh cho Cự Lượng tướng quân dẫn theo ba ngàn binh mã chiếu ứng. Cửa này phía trước có hầm Kim Sa, phiền Cao Sơn Đại Thánh làm phép Chỉ Địa Thành Cương, phá đi cái hầm đấy. Còn phía trên có Câu Hồn Xích, Thần Sơn Quý Minh hãy lấy Linh Bảo mà chống đỡ. Riêng Đào Ngột sợ công đức không dám hiện thân, các vị chẳng cần lo đến.
- Cửa Triệt Tiên, nhờ Thủy Thánh dâng nước sông Lam, phá đi cái trận địa lôi. Còn ở trên có cờ đỏ, cờ này gọi là Chiêu Hồn Phướng, có thể thâu nạp hồn phách. Nhờ Lang Liêu Đại Thánh mang theo Công Đức Hạt Giống trấn áp, hễ thấy Hỗn Độn xông ra cứ lấy Hòa hạt mà nện xuống, nó ắt không dám làm càn. Cửa này tôi sẽ sai Lê Hoàn tướng quân dẫn theo ba ngàn binh mã tiếp ứng.
- Cửa Tru Tiên, nhờ Sơn Tinh Đại Thánh mang theo Thâu Mộc Đồng Liêm tới áp trận. Nơi này bày chông nhọn, Đại Thánh có thể làm phép Dời Sơn Lấp Bể, lấp đi cái hố chông đấy. Thông lại cho Trình Minh tướng quân dẫn binh mã tiếp ứng. Phía trên cổng có treo một cây Tru Thiên Tiễn, thấy tiễn này Đại Thánh chớ lo. Cây Tiễn đó, nó mũi đúc từ Vẫn Tiên Thạch, thân đẽo từ Diệt Hồn Mộc, mặc dù ghê gớm là thế. Nhưng Thâu Mộc Đồng Liêm ngài cầm theo là khắc chế thiên hạ cỏ cây hoa lá, nó mà thấy Đồng Liêm chẳng khác gì chuột thấy mèo cả. Cửa này có Hung Thú Hỗn Độn, Đại Thánh cứ cầm Đồng Liêm mà chém, chẳng nên sợ hãi.
- Cửa cuối cùng là Trảm Tiên, nhờ Hùng Vương xa giá, mang theo trống đồng tới đó. Đông Sơn Cổ Đồng Chung là ông tổ của nhạc cụ, cửa Trảm Tiên có treo cây Thâu Hồn Chung, nó không reo thì thôi, một khi reo, Hùng Vương chỉ cần vỗ trống một cái. Món Thâu Hồn Chung ấy ắt vỡ nát thành từng mảnh. Còn như Hung Thú Cùng Kỳ canh giữ cổng này, nó vốn thích kẻ ác, ghét người hiền. Hùng Vương có công đức hộ thân nó trông thấy thì sợ vỡ mật, làm gì dám tung hoành?
Bày kế xong rồi, Tiên Thần ai nấy đều hăng hái, chỉ chờ đến ngày phá trận. Lý Thông hướng Sơn Tinh, nói:
- Trận này bày chỉ có bảy ngày, sau bảy ngày thì Nguyễn Bặc tướng quân ở trong sẽ có tử kiếp giáng lâm. Mặc dù Nguyễn Bặc là thiên tướng hạ phàm, có chân linh Bạch Hổ bảo vệ, nhưng cũng không thoát khỏi cái kiếp ấy. Tính từ lúc Ngư Tinh bày cái trận ấy đến bây giờ đã qua năm ngày. Tôi sợ cước lực của mã không về tới kịp, vậy nên muốn mượn nhờ Sơn Thánh con Thiên Mã Cửu Hồng Mao.
Sơn Tinh gật đầu ưng thuận, chụm môi huýt sáo một cái. Chợt ở phía xa có hai bóng trắng phi nhanh đến, nhìn kỹ lại thì quả nhiên thấy hai con ngựa. Điều kỳ lạ là hai con ngựa này, mỗi con đều có chín cái long màu hồng.
Lý Thông chậc lưỡi khen:
- Tôi nghe chuyện xưa kể lại rằng, vì cưới được mỹ nhân. Sơn Thánh đi khắp thiên hạ tìm được ba con vật quý, là Voi chín ngà, Gà chín cựa và Ngựa chín hồng mao. Nay thấy được hai con thiên mã nầy mới hiểu được ngựa quý là như thế nào!
Đồ Sơn Thủy Thánh, Thủy Tinh cười khẩy, nói:
- Con ngựa ấy có chi ghê gớm, chân nhân hôm nào rảnh qua động phủ ta chơi. Thiên tài địa bảo, của lạ thú hiếm đầy rẫy cho chân nhân tùy ý chọn lựa. Chỉ là con ngựa có tính là gì?
Vốn là Thủy Tinh trước đây không rước được Mỵ Nương về, nên trong lòng vẫn ấm ức chuyện cũ. Tuy đã bắt tay giảng hòa, nhưng khi thấy con Thiên Mã Cửu Hồng Mao, vẫn không nhịn được mà mở miệng xoi mói. Sơn Tinh tính tình nóng nảy, nghe thế liền nổi giận, trợn trừng trừng mắt mà nhìn Thuỷ Tinh.
Lý Thông mắt thấy hai người sắp cãi nhau tới nơi, vội nói:
- Chư vị thành hiền, đất Hoan Châu chướng khí mù mịt. Thông sợ rằng chư vị không đằng vân giá vụ được, không biết phải làm cách nào?
Quý Minh đáp:
- Chân nhân cứ cưỡi ngựa trở về, cho chúng tôi trốn trong ống tay áo ngài là được.
Dứt lời, chư vị tiên thần hóa thành đạo ánh sáng, nhập vào ống tay áo của Lý Thông.
Sau đấy, Lý Thông cho người lưu lại dọn đài. Mình thì cùng Thạch Sanh cưỡi Thiên Mã Cửu Hồng Mao chạy gấp trở về.
Thiên Mã cước bộ nhanh như gió, một đạp đã phi được bảy dặm.
Người đời sau có thơ rằng:
“Đường dài mới biết sức ngựa hay
Cước bộ tung hoành, phóng như bay
Cửu sắc mao hồng, Thiên Mã ấy
Đất Hoan hướng tới, hết đêm ngày.”