Pháp Y Tần Minh - Quyển 4: Kẻ Dọn Rác

Chương 7: Vụ án thứ 2 - Tiếng súng lúc nửa đêm (2)

Xe cảnh sát của chúng tôi đi theo xe cảnh sát địa phương hướng về phía tây ngoại ô thành phố. Một lát sau đã đến thôn. Đây là một miền quê khá trù phú và rộng lớn.

Hiện trường nằm ven đường cái cắt ngang thôn, phía ngoài vòng dây cảnh báo đã có rất nhiều người dân đứng vây quanh.

Tôi dụi mắt cho đỡ mỏi, vươn vai, rồi xách hòm dụng cụ khám nghiệm bước xuống xe.

Đây là đường chính dẫn vào trong thôn nên con đường đất đỏ này khá rộng rãi. Vì hiện trường ở ngoài trời nên để bảo quản vật chứng và các dấu vết xung quanh, cảnh sát dân sự đến trước đó đã dựng chướng ngại vật và căng dây cảnh báo cách hiện trường trung tâm hơn một trăm mét. Ba chúng tôi đeo thẻ điều tra, vượt qua khu vực phong tỏa hướng về phía hiện trường trung tâm.

Lần này vết thương do súng bắn đã lấy đi mạng người!

Một người đàn ông tầm ba, bốn mươi tuổi nằm dưới gốc cây ven đường, quanh thi thể có rất nhiều vết máu lớn. Từ hiện trường trung tâm hướng về phía bắc chừng mười mét có thể thấy dấu chân máu thành hàng, hướng bước chân cho thấy kẻ đó tiến vào hiện trường trung tâm.

Là kỹ thuật viên giám định dấu vết nên Lâm Đào rất hứng thú với dấu chân. Trong khi chúng tôi vẫn đang quan sát xung quanh hiện trường thì Lâm Đào đã chạy đến bên cạnh dấu chân, ghé sát mặt xuống xem xét. Nhìn một lúc, cậu ta lại bước đến cạnh thi thể, thấy đế giày của thi thể, cậu ta nói: “Ô, dấu chân thành hàng này là của chính bản thân nạn nhân.”

“Không có dấu chân của người khác sao?” Tôi hỏi.

Lâm Đào lắc đầu: “Không! Từ đặc trưng của dấu chân cho thấy chỉ có một đôi giày, chính là đôi giày mà người chết đang đi.”

“Vậy xem gần đây có dấu chân của những người khác không?” Trần Thi Vũ hỏi.

“Làm thế không có ý nghĩa gì hết! Cô đừng quên đây là đường cái, trên đường đương nhiên phải có rất nhiều dấu chân với đủ mọi kích cỡ, hình dạng. Ai dám khẳng định dấu chân nào là dấu chân do hung thủ để lại?” Lâm Đào thất vọng.

Tôi lần theo dấu chân máu bước đến điểm khởi đầu của dấu chân và quan sát trên mặt đất. Trên mặt đất có một vết bùn đất cọ sát còn mới, cạnh đó có một vùng máu lớn. Điểm khởi đầu của dấu chân máu chính là từ đây. Tôi chỉ vũng máu nói: “Có lẽ nạn nhân bị thương ở đây, sau đó bước dần đến hiện trường trung tâm, ngã xuống và tử vong.”

“Bị bắn mà còn đi được dài thế sao?” Trần Thi Vũ hỏi.

Đại Bảo cướp lời: “Lông Vũ, tại cô chưa hiểu đấy thôi. Đầu tiên, chúng ta không biết vị trí vết thương chí mạng của nạn nhân nằm ở đâu và vết thương chí mạng đó có nghiêm trọng hay không. Tiếp đó, chỉ xét riêng khả năng hành vi sau khi dính vết thương chí mạng thì mỗi cá nhân đã có sự khác biệt rất lớn. Thông thường khi bị một nhát dao đâm vào tim, đa số trường hợp tim sẽ ngừng đập, rồi tử vong ngay sau đó, nhưng cũng có người sau khi bị dao đâm vào tim sẽ chạy điên cuồng một trăm mét rồi mới ngã vật xuống đất và tử vong. Từ dấu vết để lại có thể thấy nạn nhân bị thương ở đây, nhưng vẫn tiếp tục đi được ngoài chục mét mới chết là chuyện rất bình thường.”

Trần Thi Vũ gật đầu, nhưng ngay sau đó lại nhăn mày nói: “Tên tôi là Trần Thi Vũ, ok? Tên hay thế mà bị anh gọi chẳng ra làm sao cả!”

Cạnh tử thi có một khẩu súng, trên thân súng dính vài vết máu. Đây là khẩu súng săn tự chế, ống đạn đơn. Vì muốn đảm bảo có thể bắn đạn từ cự ly xa mà không thay đổi đường đạn nên nòng súng được thiết kế rất dài, phải đến tám mươi centimet, cộng cả thân súng và báng súng thì khẩu súng này dài chừng một mét hai mươi.

Nhà nước quản lý súng ống vô cùng nghiêm ngặt, không chỉ quản lý nghiêm ngặt với việc thực thi sản xuất súng ống mà còn quản lý nghiêm ngặt cả với các loại súng tự chế, nếu phát hiện sẽ lập tức bị tịch thu, không những thế còn xử phạt nghiêm khắc với những người tàng trữ súng ống. Nhưng có lẽ do vấn đề tồn đọng của lịch sử nên súng tự chế ở Trình Thành vẫn còn khá nhiều. Tuy bộ phận cảnh sát an ninh thường xuyên tổ chức các chuyến ra quân quy mô lớn để thu hồi súng ống và xử lý đương sự, nhưng tình trạng chế tạo và buôn bán súng ống phạm pháp vẫn cứ tồn tại, đặc biệt đối với những trường hợp chế tạo và cất giữ súng ống tại nhà lại càng không có biện pháp gì từ bỏ tận gốc. Dẫu có người báo án thì khi cảnh sát dân sự đến kiểm tra vẫn rất khó khăn mới tìm ra được nơi giấu súng ở địa bàn nông thôn người thưa đất rộng này.

Tuy thấy súng ống ở Trình Thành không phải việc gì kỳ quái nhưng cảnh sát địa phương vẫn vô cùng căng thẳng, bởi họ không quản lý súng ống chặt chẽ gây hậu quả chết người, chắc chắn trưởng đồn cảnh sát là người phải chịu trách nhiệm về việc này.

“Đây đâu phải địa điểm thuận tiện để gϊếŧ người nhỉ?” Tôi đứng thẳng người, thắc mắc, “Xung quanh hiện trường rất trống trải, không có vật che chắn. Tuy hộ gia đình gần đây nhất cũng cách hơn hai trăm mét, nhưng chỉ cần ai đó đứng ở cửa là có thể nhìn rõ mọi thứ xảy ra tại đây. Trong ấn tượng của tôi, những kẻ dùng súng bắn người thông thường đều lên kế hoạch từ trước, nhưng lên kế hoạch gϊếŧ người ở đây thì không hợp lý chút nào.”

Đại Bảo nghe tôi nói vậy cũng đứng thẳng người nhìn bốn phía xung quanh.

“Tình hình chúng tôi điều tra được là thế này…” Đồn trưởng cảnh sát Lưu châu đầu lại chủ động trình bày, “Nạn nhân tên là Hồ Kỳ, ba mươi bảy tuổi, sống ở thôn Hồ Gia, nông dân, đạo đức không tốt lắm, có tiền án về tội trộm cắp. Hơn nữa tật xấu lớn nhất của người này là yêu rượu hơn cả mạng sống. Mà hễ uống rượu là đánh vợ, đánh mẹ già, ra ngoài động tay động chân với các bé gái, thường xuyên tranh chấp cãi cọ với người khác. Nói chung mọi người trong thôn rất ghét anh ta, nghe đến tên anh ta là đã cau mày khó chịu. Chắc anh ta bị coi là ác bá mất, người dân trong vùng đều nói loại cặn bã như anh ta chết đi là phúc đức cho xã hội.”

Tôi hiểu hàm ý trong câu nói của đồn trưởng, anh ta muốn kể lể các tật xấu của nạn nhân lúc còn sống hòng giảm nhẹ trách nhiệm của mình. Nhưng tôi tin rằng cho dù nghĩ vậy anh ta cũng không dám bịa đặt tình tiết, có lẽ lúc còn sống nạn nhân quả thật đầy rẫy chiến tích bất hảo.

“Còn nữa…” Đồn trưởng bổ sung, “Chúng tôi từng nhìn thấy khẩu súng này rồi, cũng đối chiếu rồi, nó là súng tự chế của anh ta. Tháng trước không biết anh ta lấy đâu ra một ống thép, thế là anh ta bắt đầu chế tạo súng ngay tại nhà, đại khái là hai tuần trước thì làm xong. Chuyện này, mẹ của anh ta là Triệu Tú Liên và vợ của anh ta là Trương Việt có thể làm chứng. Chúng tôi cũng đã lục soát trong hầm chứa nhà anh ta, tìm thấy vật liệu còn thừa dùng để chế tạo súng, cùng mấy viên đạn tự chế.”

“Hiện tại cảnh sát bước đầu nhận định nạn nhân Hồ Kỳ nửa đêm mang súng ra khỏi nhà không cẩn thận làm súng cướp cò bắn trúng người mình dẫn đến mất máu quá nhiều và tử vong.” Bác sĩ pháp y ở Trình Thành họ Dương lên tiếng, “Chúng tôi vẫn chưa tiến hành khám nghiệm nên cũng chưa thể khẳng định quan điểm của họ.”

Súng của mình lấy đi chính tính mạng của mình, đây là cái cớ tốt nhất để đồn trưởng làm giảm nhẹ trách nhiệm khi bị truy cứu.

“Các anh sờ vào khẩu súng đó rồi à?” Lâm Đào nghe họ nói đã nhận diện khẩu súng tại hiện trường rồi liền vội hỏi.

Tôi cũng lo lắng hệt như Lâm Đào, chỉ sợ tên đồn trưởng cuống lên muốn thoát khỏi trách nhiệm đã phá hoại dấu vết trên khẩu súng.

“Không! Không!” Đồn trưởng xua tay, “Chúng tôi dẫn nhân chứng đến hiện trường để nhận diện. Chúng tôi cũng có ý thức bảo quản vật chứng chứ!”

“Vậy phần vật liệu thừa giờ ở đâu?” Lâm Đào cau mày, “Tôi muốn tiến hành đối chiếu chỉnh thể phân tách.”

Kỹ thuật đối chiếu chỉnh thể phân tách là một trong những ngón võ hữu dụng của chuyên ngành giám định dấu vết. Phương pháp cụ thể như sau: Thông qua việc đối chiếu dưới kính hiển vi, nhân viên giám định sẽ tiến hành kiểm tra, giám định lắp ráp lại, quan sát các đặc trưng nhỏ ở miệng các vết lắp ráp phần đầu bị vỡ hoặc gãy của hai vật thể, sau đó phán đoán xem hai vật thể đó có phải cùng một vật không hay chúng là hai vật thể riêng rẽ.

“Để tôi cho người đi lấy.” Đồn trưởng nói xong liền gọi điện thoại cho nhân viên kỹ thuật hình sự của đồn.

“Ai báo án vậy?” Tôi hỏi.

Đồn trưởng hướng mắt về đám người ở phía xa, rồi chỉ một thanh niên trẻ, hét to gọi cậu ta: “Hồ Lê Miêu, cậu lại đây kể cho lãnh đạo trên tỉnh biết tất cả những gì cậu phát hiện và quá trình đi báo cảnh sát.”

Nghe thấy cụm từ “lãnh đạo trên tỉnh”, đám đông đột nhiên nhao nhao như chợ vỡ, mọi người thi nhau bàn luận, có thể họ cho rằng tất cả lãnh đạo trên tỉnh đều được cử xuống điều tra vụ án này, điều đó chứng tỏ vụ án này nhất định phải là vụ án lớn chứ hoàn toàn không đơn giản giống suy nghĩ ban đầu của họ.

Tôi ngại ngùng gãi đầu, trừng mắt nhìn đồn trưởng, lòng thầm mắng sao anh to mồm thế? Đám đông vây quanh chắc không biết rằng trong Sở Cảnh sát, phòng Pháp y thực ra chỉ là đơn vị cơ sở. Ngoại trừ những vụ án đơn giản, thông thường thì chỉ khi Đội Cảnh sát không đủ nhân lực, chúng tôi mới được nhúng tay vào. Còn lại chúng tôi chỉ việc đi giám định hiện trường và giải quyết các vấn đề ở cơ sở, giúp các đơn vị pháp y cơ sở thêm tay thêm chân, thêm con dao mà thôi.

Hồ Lê Miêu theo chân một cảnh sát dân sự băng qua khu vực phong tỏa tiến về phía chúng tôi. Trông cậu ta mắt la mày lém, dọc đường đi luôn ngó trước dòm sau.

“Cậu nói đi! Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?” Tôi đứng trước mặt Hồ Lê Miêu, che tầm nhìn của cậu ta, không cho cậu ta nhìn thấy thi thể người chết, đồng thời tháo găng tay dính máu trên tay mình ra.

Hồ Lê Miêu rụt đầu nói: “Chuyện là thế này ạ… Tối qua tôi đánh mạt chược ở nhà anh tôi, lúc hơn mười giờ đêm đột nhiên tôi nghe thấy một tiếng “Pằng!” giống như nhà ai nổ pháo. À không, còn giòn hơn cả tiếng pháo. Bốn người chúng tôi lập tức chạy ra ngoài xem, nhưng chẳng thấy ánh pháo gì cả.”

“Đợi chút! Nhà anh cậu ở đâu?” Tôi hỏi.

Hồ Lê Miêu và đồn trưởng cùng chỉ về phía đông của hiện trường rồi đáp: “Nhà anh tôi nằm ở phía đông cách đây ba trăm mét.”

“Men theo con đường này phải không?”

Hồ Lê Miêu gật đầu.

“Vậy các cậu nhìn thấy gì không?”

“Khi đó trăng rất sáng, chúng tôi nhìn thấy một bóng người đi về hướng tây.” Hồ Lê Miêu nói, “Xem bóng lưng rất giống anh ta.” Nói xong Hồ Lê Miêu chỉ tay về phía thi thể của Hồ Kỳ nằm trên mặt đất.

Tôi ngoảnh đầu nhìn đồn trưởng để xác thực xem cậu ta khai đúng không.

Đồn trưởng gật đầu: “Chúng tôi đã lấy khẩu cung rồi, mấy người chơi mạt chược đều xác nhận chuyện này là thật.”

“Cậu chắc chỉ thấy một bóng người chứ?” Tôi hỏi.

Hồ Lê Miêu kiên định gật đầu.

“Căn cứ vào manh mối này, về cơ bản chúng tôi xác định nạn nhân tử vong vì súng tự chế của mình bị cướp cò.” Đồn trưởng nói.

Tôi xua tay: “Đừng vội đưa ra kết luận! Nhà Hồ Kỳ ở đâu?”

Đồn trưởng chỉ tay về phía tây đáp: “Nằm ở phía tây cách đây một trăm mét, qua khu vực phong tỏa, rẽ trái, rồi rẽ phải là đến.”

Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của đồn trưởng và thấy vòng hết ngã nọ đến ngã kia thì tầm nhìn bị nhà vệ sinh công cộng chắn mất.

Sau khi nghe thấy tiếng súng, khoảng bao lâu thì các cậu đi ra ngoài?” Trần Thi Vũ hỏi. Câu cô ấy hỏi cũng là câu mà tôi đang muốn hỏi.

Hồ Lê Miêu cúi đầu nghĩ một lát rồi đáp: “Chúng tôi ở vườn sau, chỉ cần mở cửa, đi qua vườn, mở cổng là ra đến ngoài rồi. Nên tôi đoán chỉ tầm hai mươi giây là cùng.”

Tôi “Ồ!” lên một tiếng bảo: “Các cậu cứ kể tiếp đi! Khi nãy cậu nói cậu nhìn thấy một bóng người.”

“À vâng!” Hồ Lê Miêu hắng giọng, “Chúng tôi thấy Hồ Kỳ loạng choạng đi về phía tây, cũng chính là phía nhà của anh ta. Vì nghĩ thường ngày Hồ Kỳ luôn thích uống rượu, mà cứ uống nhiều là dáng đi lại xiêu vẹo, nghiêng ngả như thế nên chúng tôi không để ý, tất cả quay vào chơi tiếp ván mạt chược đang dở. Lát sau thì trời sáng, tôi thắng hơn ba ngàn tệ, hề hề!”

Nói xong cậu ta liền phát giác mình lỡ lời nên liếc nhìn đồn trưởng, thấy đồn trưởng không có ý truy cứu việc nhóm cậu ta đánh bạc, nên mới mạnh dạn nói tiếp: “Sáng sớm tinh mơ, tôi từ nhà anh trai đi theo hướng tây, cứ đi tiếp con đường này đến đầu bên kia chính là nhà tôi. Chẳng ngờ khi đi ngang qua qua đây thì nhìn thấy anh ta nằm trên đất, bên cạnh có vũng máu to làm tôi sợ hết hồn.”

Đồn trưởng liếc mắt ra hiệu cho Hồ Lê Miêu, cậu ta liền vội nói tiếp: “Loại cặn bã như anh ta chết là tốt nhất.”

Tôi phản cảm xua tay nói: “Nghĩa tử là nghĩa tận, đừng độc ác như thế, dẫu anh ta đã làm đủ điều bại hoại đạo đức nhưng chí ít anh ta vẫn có quyền được sống.”

“Thế các anh cần hỏi tiếp nữa không?” Hồ Lê Miêu hỏi.

“Nhà anh trai cậu chỉ cách hiện trường ba trăm mét, nửa đêm thanh vắng như vậy mà các cậu không nghe thấy tiếng kêu la, vật lộn hay cầu cứu gì sao? Bởi tôi thấy không phải anh ta tử vong tại chỗ mà còn đi hơn chục bước nữa mới chết.” Đại Bảo hỏi.

Đúng là câu hỏi này vô cùng quan trọng.

Hồ Lê Miêu lắc đầu: “Chắc chắn chúng tôi không nghe thấy gì hết cả!”

“Súng của anh ta cướp cò, thêm vào đó lại uống quá nhiều rượu nên chưa chắc anh ta đã kêu la.” Đồn trưởng giải thích.

Tôi thấy đồn trưởng nói cũng có lý nên không thêm vào câu gì, chỉ lẳng lặng đeo găng tay tiến hành khám nghiệm bước đầu ở phía ngoài tử thi.

Nạn nhân mặc áo phông dài tay và quần thể thao, ống quần phải gần như thấm đẫm máu trong khi áo lại không dính vết máu nào. Đại Bảo vươn tay sờ quần của nạn nhân nhưng bị tôi ngăn lại: “Đừng chạm vào! Cậu nhìn kìa, trên ống quần có dấu vết của họng súng.”

Dấu vết họng súng là đặc trưng của kiểu bắn cự ly gí sát. Kiểu bắn cự ly gí sát là một dạng thể hiện khoảng cách giữa họng súng và mục tiêu.

Ai có hứng thú với khí tài quân sự đều biết rằng súng ống chủ yếu được chia thành hai loại, đó là súng có nòng xẻ rãnh xoắn và súng nòng trơn.

Súng có nòng xẻ rãnh xoắn là loại súng mà nòng súng được xẻ rãnh theo đường xoắn ốc, như vậy khi bắn đi, đạn sẽ bay ra theo đường xoắn ốc, nhờ đó giúp gia tăng cự ly bắn đi xa của đường đạn, không những vậy còn tăng độ chính xác và lực sát thương. Nếu loại súng ống này bắn gí sát thì trên da sẽ để lại dấu vết họng súng, nếu cự ly bắn dưới một mét (bắn ở cự ly gần), do đầu đạn xóay vào da thịt với tốc độ cao nên trên da sẽ lưu lại vết bầm giập, vết trầy xước, vết bỏng với các chấm thuốc nổ li ti và vết ám khói cùng vệt thuốc nổ trầm lắng quanh bờ vết thương. Còn nếu cự ly ngắm bắn ngoài một mét (bắn ở cự ly xa) thì trên da sẽ để lại lỗ đạn kèm theo vòng trầy xước và vòng vết bẩn quanh vết thương mà hoàn toàn không nhìn thấy vết bỏng và vết ám khói.

Nhưng súng có nòng xẻ rãnh đòi hỏi công nghệ chế tác khá cao, bởi vậy trong các loại súng tự chế, người dân chủ yếu chọn loại súng nòng trơn. Súng nòng trơn còn gọi là súng bắn đạn ghém. Loại súng này chỉ dùng được những loại đạn với đường kính tuân theo một quy cách nhất định, trong viên đạn đổ đầy thuốc nổ và các viên đạn nhỏ. Khi bóp cò, những viên đạn nhỏ bắn ra theo hình chóp, bởi vậy phán đoán cự ly bắn của loại súng nòng trơn này chủ yếu phải căn cứ vào diện tích của đạn phân bố trên bề mặt da, nếu chỉ có một lỗ thủng lớn, điều đó chứng tỏ cự ly bắn tương đối gần, nếu vết đạn găm vào cơ thể là một dải lỗ nhỏ thì cự ly bắn lại khá xa. Cự ly bắn của loại gần thì lực sát thương mới lớn. Đương nhiên, giống như súng có nòng xẻ rãnh xoắn, súng nòng trơn cũng sẽ để lại dấu vết của họng súng trên da khi bắn gí sát.

“Dấu vết của họng súng này có điểm gì đó khá kỳ quái, Lâm Đào, cậu nhớ chụp ảnh đấy!” Đại Bảo liếc sang tôi, “Thông thường bắn gí sát chỉ xảy ra trong hai trường hợp là súng cướp cò hoặc tự sát, bởi vậy rất có thể súng anh ta bị cướp cò giống như lời đồn trưởng nói.”

Lâm Đào đứng bên cạnh cầm gói vật liệu mà cảnh sát dân sự lấy được trong nhà của nạn nhân, đối chiếu với khẩu súng được bảo quản trong túi nilon đựng vật chứng mà cảnh sát thấy ở hiện trường, cậu ta nhận định hai vật này có cùng chất liệu, điều đó cũng có nghĩa là khẩu súng này đúng là súng tự chế của nạn nhân.

Lâm Đào bước đến và nói cho chúng tôi biết kết quả đối chiếu, nhưng kết quả này dựa trên phán đoán về vật liệu lấy trên công cụ. Nếu muốn xác định chắc chắn theo phương pháp chỉnh thể phân tách thì phải thực hiện thí nghiệm trong phòng thí nghiệm chuyên ngành có liên quan.

Lâm Đào chụp ảnh xong, liền quan sát dấu vết họng súng trên da nạn nhân và họng súng lấy được từ hiện trường. Dưới góc nhìn chuyên môn của chuyên gia giám định dấu vết, cậu ta hơi mỉm cười: “Có điều, từ dấu vết họng súng trên vết thương có thể thấy khẩu súng gây sát thương chính là khẩu súng mà ta tìm thấy tại hiện trường.”