Tất cả những ai tìm hiểu về những tai họa của loài người đều tin rằng, phần lớn bất hạnh trên đời đều tới từ sự thiếu hiểu biết.
Helvétius
“Sư phụ!” Đại Bảo mừng rỡ reo lên. “Lâu lắm rồi không được cùng sư phụ chạy hiện trường đấy.”
Tuy mỗi lần tới hiện trường phá án, chúng tôi đều báo cáo lên sư phụ để đánh giá, sau đó từ những đánh giá này mà đúc rút ra một số kỹ xảo phá án, nhưng vẫn không thể trực quan sinh động bằng việc cùng sư phụ khám nghiệm hiện trường, tận mắt chứng kiến bản lĩnh lão luyện của sư phụ.
Do số lượng bác sĩ pháp y của sở Công an tỉnh có hạn nên tôi và sư phụ thường xuyên phải chia nhau ra làm việc, cơ hội cùng điều tra một hiện trường là cực hiếm. Tuy nhiên hôm nay, sư phụ đã ngồi ngay ngắn ở ghế lái phụ chờ chúng tôi.
“Hiện trường quá nhiều nạn nhân, tôi phải đi.” Sư phụ nghiêm túc nói. “Mới đầu năm mới mà đã xảy ra vụ án thương tâm đến vậy, thật quá tàn nhẫn. Mọi người nghe rõ đây, chúng ta tuyệt đối không cho phép tội phạm nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, thản nhiên ăn rằm tháng Giêng được!”
Mồng 8 tháng Giêng, ngày đầu tiên đi làm trở lại sau kỳ nghỉ Tết, tôi, Đại Bảo và Lâm Đào đã nhận được chỉ thị từ trung tâm chỉ huy, 7 giờ sáng xuất phát, cấp tốc tới huyện Khánh Dương khám nghiệm hiện trường vụ án một gia đình ba người bị sát hại.
“Theo như trung tâm chỉ huy thông báo, có ba nạn nhân thiệt mạng.” Tôi nói. “Chắc là hai vợ chồng và một đứa con!”
Từ sau vụ án bé Thanh Hoa trong thời kỳ thực tập, tôi sợ nhất là vụ án trẻ nhỏ bị sát hại. Chúng còn chưa biết đến những điều tốt đẹp trên thế gian này đã bị tước đi quyền được sống, thật đáng căm phẫn.
Sư phụ lắc đầu, nói: “Cụ thể thế nào chưa rõ, hiện trường khép kín, bộ phận Pháp chứng của địa phương đang mở đường vào hiện trường. Cảnh sát khu vực sau khi nhận được tin báo, tiến vào trong nhà, phát hiện ra nạn nhân là một bà cụ và một phụ nữ trẻ. Theo phản ánh, trong nhà còn có một bé gái ba tuổi nhưng cảnh sát khu vực chưa tìm thấy, hiện tại coi như mất tích.”
Gϊếŧ người để bắt cóc trẻ con? Không đến mức ghê rợn như vậy chứ? Tôi kinh hãi đến toát mồ hôi lạnh.
“Mong là đứa trẻ chạy đi đâu rồi,” Đại Bảo cúi đầu nói, “có thể thoát khỏi tai nạn.”
“Chỉ mong là vậy.” Sư phụ thở dài.
*
Bên ngoài gió lạnh thấu xương, kính xe cũng mờ hơi nước, điều hòa thổi hết cỡ cũng vô tác dụng. Cứ chốc chốc, tôi lại phải đưa tay lau đi những giọt hơi nước bám trên kính, nheo mắt lái xe chật vật trên con đường quốc lộ đã đóng băng. Cần đảm bảo an toàn cho mọi người nhưng vẫn phải mau chóng tới được hiện trường, tổ chuyên án đang đợi chúng tôi. Chặng đường quả là gian nan.
Khánh Dương là một huyện phát triển trong tỉnh, cũng là huyện gần tỉnh lỵ nhất. Cùng với quá trình thành thị hóa nông thôn, huyện lỵ của Khánh Dương đã dần dần mở rộng đến gần tỉnh lỵ. Bởi vậy, hai bên đường lúc nào cũng là phố thị sầm uất, nên dù băng tuyết đầy trời, chỉ sau nửa tiếng đồng hồ chúng tôi đã tới huyện lỵ, sau đó đi thêm một tiếng nữa trên con đường làng nhỏ phủ đầy băng trơn tuột, tiến về phía ngôi làng hiện trường.
Tôi nhảy xuống xe, nhìn chiếc xe cảnh sát phủ kín bùn đất từ cửa sổ trở xuống, nói: “May quá đi xe việt dã chứ nếu lái con Santana thì bây giờ khéo bùn bịt kín cả cửa sổ xe mất rồi.”
“Phía trước không đi tiếp được nữa đâu.” Viên cảnh sát khu vực dẫn đường cũng đã nhảy xuống khỏi xe, nói. “Bên trong toàn là đường đất cả, đầy ổ gà, đâu đâu cũng đóng băng, sa xuống đấy chắc lên không nổi. Tốt nhất là đi bộ vào vậy.”
Sư phụ mở cửa xe, vừa cúi xuống nhét gấu quần đồng phục vào trong tất vừa nói: “Chỗ hẻo lánh thế này, thời tiết lại khắc nghiệt, ai lại mò tới tận đây gây án cơ chứ?”
Sư phụ vẫn cứ là sư phụ, chưa vào hiện trường đã có thể khoanh vùng điều tra.
Trời quá lạnh, người tới xem cũng không nhiều.
Hiện trường là một ngôi nhà nằm trơ trọi một mình trong phạm vi vài trăm mét xung quanh đều là đồng ruộng và ao hồ. Ngôi nhà trông cổ kính nhưng không hề cũ kỹ. Giữa những khe gạch xanh mọc đầy rêu phong, trên tường phủ kín dây thường xuân đã héo úa, lấm tấm những vụn tuyết trắng vẫn chưa tan hết.
Sư phụ dẫn chúng tôi bước thấp bước cao đi một vòng quanh ngôi nhà cổ, chốc chốc lại đẩy thử vào cửa sổ.
“Cửa sổ đều khóa chặt, chẳng lẽ hung thủ xâm nhập từ cửa chính?” Đại Bảo băn khoăn.
“Mặt tường bên ngoài đều là dây thường xuân, nếu trèo tường vào nhà, chắc sẽ để lại dấu vết phải không?” Sư phụ quay sang hỏi Lâm Đào.
Lâm Đào gật đầu: “Tường cao thế này, nếu trèo lên đương nhiên sẽ để lại gết giẫm đạp, vậy thì chắc chắn sẽ có dấu vết trèo vào.”
“Điều tra viên chính đến rồi, chúng ta tới hỏi xem tình hình thế nào.” Tôi nói với sư phụ.
Sư phụ khẽ gật đầu, chật vật bước đi trên đoạn đường lép nhép bùn nhão trộn lẫn với băng, từ phía sau ngôi nhà vòng đến cổng chính của hiện trường. Ngoài cổng chính thấy có xác pháo đã được quét gom vào một chỗ, có thể đặt dụng cụ khám nghiệm tại đó. Tôi ngồi xuống, bốc lấy một nắm xác pháo quan sát, không khí năm mới còn phảng phất đâu đây, dường như vẫn nghe thấy tiếng cười nói vui vẻ vọng lại trước cổng từ vài hôm trước.
“Hộ này có bốn người thuộc ba thế hệ sinh sống.” Điều tra viên nói. “Bà Cổ Hương Lan năm nay ngoài 60 tuổi, đã ở góa nhiều năm, chỉ có một cô con gái tên là Chu Phượng, năm nay 29 tuổi. Tuy Cổ Hương Lan một mình nuôi con, nhưng do nhà họ Chu làm nghề kinh doanh nên rất khá giả. Bốn năm trước, bà Cố đã kén một chàng rể cho Chu Phượng, tên là Tôn Hải Âu, một đứa trẻ mồ côi.”
“Kén rể?” Tôi ngạc nhiên hỏi. “Thời đại này mà vẫn còn chuyện đấy à?”
Điều tra viên cười nói: “Còn chứ, con còn theo họ mẹ nữa cơ.”
“Ồ!” Tôi nói. “Lạ thật đấy!”
Sư phụ xua tay, ý bảo tôi để điều tra viên tiếp tục trình bày vụ án. Tôi vội im bặt.
“Ba năm trước, vợ chồng Tôn Hải Âu và Chu Phượng sinh được một bé gái.” Điều tra viên tiếp tục kể. “Đứa bé tên là Chu Lanh Lợi. Đúng như tên gọi, cô bé rất xinh xắn, thông minh, lanh lợi, đáng yêu, ai nhìn cũng thích. Hơn 6 giờ sáng hôm nay, một người dân trong làng đến rủ Chu Phượng lên thị trấn mua đồ, nhưng gõ cửa mãi mà không thấy ai ra mở, bèn đi vòng ra cửa sổ gian nhà chái phía tây nằm gần cổng chính của khu nhà.”
“Do Tôn Hải Âu bất mãn vì con mang họ mẹ nên đã sát hại mẹ vợ và vợ, sau đó dẫn con bỏ trốn?” Tôi nhịn không nổi buột ra một câu.
Điều tra viên nói: “Điều tra hiện trường sơ bộ không phát hiện ra dấu vết lục lọi. Khóa cổng chính vẫn còn nguyên vẹn, không có dấu vết cạy phá, các cửa sổ đều đóng chặt. Bức tường bên ngoài chúng tôi cũng đã kiểm tra một lượt rồi, không thấy có dấu vết leo trèo.”
“Ý anh là,” sư phụ xoa cằm, “thứ nhất, đây giống như một vụ án gϊếŧ người vì thù hận. Thứ hai, hung thủ đã đàng hoàng tiến vào hiện trường?”
“Không chỉ có vậy!” Điều tra viên nói. “Bác sĩ pháp y của chúng tôi đã tiến hành khám nghiệm sơ qua thi thể của Cố Hương Lan, nhận định Cổ Hương Lan đã bị sát hại trong lúc ngủ say.”
“Việc này nói lên điều gì?” Lâm Đào hỏi.
“Cổ Hương Lan sống ở gian nhà chái phía tây gần cổng chính nhất, nếu hung thủ gõ cửa vào nhà, có lẽ Cổ Hương Lan sẽ là người đầu tiên dậy mở cửa.” Điều tra viên nói. “Bởi vậy, chúng tôi ngờ rằng hung thủ đã dùng chìa khóa để mở cửa vào nhà.”
“Có vẻ như chúng ta đã tìm ra được nghi phạm số một.” Sắc mặt nặng nề của sư phụ giãn ra chút ít. “Quan hệ giữa Tôn Hải Âu và Chu Phượng ra sao? Tôn Hải Âu tối qua đã làm những gì?”
“Vô cùng khả nghi!” Điều tra viên nuốt nước bọt, nói. “Theo phản ánh của người làng, hai tháng trước, Tôn Hải Âu nảy sinh mâu thuẫn với gia đình vợ, sau đó bỏ ra ngoài làm thuê, từ đó đến nay chưa quay trở về lần nào.”
“Thời gian gây án đã được loại trừ chưa?” Tôi hỏi.
Điều tra viên nở một nụ cười bí hiểm, lắc đầu, khẽ nói: “Chúng tôi đã điều tra theo số chứng minh thư của Tôn Hải Âu, hôm qua Tôn Hải Âu đã đi tàu cao tốc từ Thượng Hải về tỉnh lỵ.”
“Thế người đâu?” Sư phụ hỏi.
“Hiện giờ vẫn chưa tìm thấy.” Điều tra viên nói. “Đây là điểm khả nghi nhất, anh ta đã trở về, không phải về nhà thì còn đi đâu nữa? Ngoài ra, mẹ vợ và vợ chết, con gái lại mất tích, điểm này nói lên điều gì?”
“Tàu cao tốc tới tỉnh lỵ lúc mấy giờ?” Sư phụ hỏi tiếp.
“1 giờ sáng.” Điều tra viên đáp.
“Từ ga tàu tới đây mất hơn một tiếng đồng hồ.” Đại Bảo nói. “Vậy thì khoảng hơn 2 giờ sáng là anh ta có thể về tới nhà rồi.”
“Đã điều tra ra tối qua nạn nhân làm những gì chưa?” Sư phụ bấm đốt ngón tay tính toán thời gian, hỏi.
“Tối qua có đám cưới con trai trưởng thôn.” Điều tra viên nói. “Ba người trong nhà đều đi ăn cỗ cưới. Đại khái là ăn cỗ lúc 7 giờ tối, sau đó ‘quậy phá’ phòng tân hôn của cô dâu chú rể, tới hơn 9 giờ mới về.”
“Nạn nhân có thù oán với ai không?” Sư phụ hỏi.
Điều tra viên lắc đầu.
“Làm việc hiệu quả thật đấy.” Sư phụ gật đầu khen. “Chúng tôi còn chưa khám nghiệm tử thi mà các anh đã sắp phá án được rồi.”
Điều tra viên ngượng nghịu gãi đầu gãi tai, nói: “Thì quan hệ nhân quả rõ rệt quá còn gì?”
“Dù thế nào đi nữa, chúng tôi vẫn phải vào xem hiện trường.” Sư phụ nói. “Cố gắng tìm thêm ít chứng cứ để tình tiết vụ án thêm sáng tỏ.”
*
Bước vào cổng chính mới nhận ra khu nhà này rộng hơn tưởng tượng nhiều. Gian nhà chính và hai gian nhà chái tạo thành hình chữ U, ở giữa là khoảnh sân khá rộng. Quanh nhà chất đống một số đồ vật tạp nhạp, nhưng nhìn qua vẫn rất sạch sẽ gọn gàng.
“Bình thường, Chu Phượng và Chu Lanh Lợi sống ở gian chính.” Điều tra viên vừa nói vừa đưa tay chỉ. “Gian nhà chái phía đông dành cho khách ngủ lại, cạnh gian phía đông có một gian nhỏ nữa, là bếp. Cổ Hương Lan sống ở gian phía tây, cạnh gian phía tây là nhà vệ sinh.”
“Bình thường nhà Cổ Hương Lan sống bằng nghề gì?” Tôi hỏi.
“Nhà họ có một vườn cây ăn quả.” Điều tra viên đáp. “Hàng năm thu nhập rất khá, hơn nữa nghe nói tổ tiên nhà họ để lại khá nhiều vàng thỏi, nói chung là không phải lo lắng chuyện chi tiêu.”
Chính giữa sân có lẽ là một tử thi. Nhưng để phòng ngừa môi trường xung quanh gây ô nhiễm và tránh ánh mắt tò mò của dân làng, nhân viên khám nghiệm hiện trường đã dùng vải nilon phủ lên. Xung quanh thi thể có vết máu phun và vết máu bôi quệt thành mảng, còn có một số vết giày và vết chân trần dính máu, rõ ràng là dấu vết vật lộn.
Sư phụ tới bên thi thể, vén một góc tấm nilon lên.
Tôi nhìn xuống bên dưới tấm nilon, thấy nạn nhân nằm sấp dưới đất, mặt nghiêng sang một bên, là một phụ nữ trẻ, vóc dáng nhỏ nhắn, tóc bết máu lòa xòa, che kín khuôn mặt.
Cô mặc một chiếc áo ngủ bằng vải cotton màu trắng, cổ áo và ống tay áo đều ướt sũng những máu.
Lâm Đào lấy thước đo vết chân ra đo đạc dấu giày tại vị trí rõ nhất, nói: “Theo tính toán, có lẽ hung thủ đi giày cỡ 40.”
“Cỡ 40?” Tôi nói. “Người lớn, có vẻ không cao?”
Lâm Đào gật đầu.
Sư phụ quay lại hỏi điều tra viên ở phía sau: “Theo như các anh biết thì Tôn Hải Âu vóc người thế nào?”
“Không cao.” Điều tra viên giở sổ ghi chép, nói. “Nhìn chung là chưa tới 1,7 mét. Vai to ngực nở, thuộc mẫu người vạm vỡ khỏe mạnh.”
“Nhìn từ dấu vết,” Lâm Đào nói, “cỡ giày thì tương đồng nhưng dấu giày trông lại khá nông, không giống như của người nặng cân. Nhưng không thể xem đây là chứng cứ được. Chất liệu giày, tư thế đứng và chất đất đều sẽ gây ảnh hưởng.”
“Tôi lại không chú ý tới điểm này.” Sư phụ ngồi thụp xuống, ngẫm nghĩ một lát rồi nói. “Chúng ta hãy nhìn Chu Phượng mà xem, chỉ cao hơn 1,5 mét, cùng lắm cũng chỉ tầm 48, 49 cân. Tầm vóc như vậy có thể quần nhau với Tôn Hải Âu sức dài vai rộng lâu được đến thế không?”
Theo hướng chỉ của sư phụ, tôi nhìn vào dấu vết vận lộn và những vết máu dạng nhỏ giọt trên nền đất trong sân, nói: “Sư phụ nói cũng phải, phạm vi rộng thế này, lượng máu lại nhiều thế kia, có lẽ nạn nhân mất quá nhiều máu nên mới gục ngã.”
“Nếu Tôn Hải Âu muốn gϊếŧ Chu Phượng, anh thấy có phải vất vả đến thế không?” Sư phụ hỏi điều tra viên.
Đại Bảo ngồi xuống bên cạnh nạn nhân, đẩy gọng kính trên sống mũi, nói: “Dù gì thì họ cũng là vợ chồng, biết đâu là không đành lòng ra tay?”
“Hắn đã gϊếŧ một người rồi.” Sư phụ nói. “Có câu gϊếŧ người thì đỏ mắt, đã gϊếŧ một người thì có gϊếŧ thêm nữa cũng sẽ không ghê tay đâu. Nếu hắn đã gϊếŧ Cố Hương Lan thì còn có gì mà đành lòng với không đành lòng nữa?”
“Sếp Trần,” điều tra viên hỏi, “anh căn cứ vào đâu mà khẳng định hung thủ đã gϊếŧ Cổ Hương Lan trước?”
Sư phụ chỉ vào gian nhà chái phía tây.
Nhân viên khám nghiệm hiện trường đang phun chất Luminol xuống mặt đất từ gian phòng phía tây tới bên xác Chu Phượng, từ vết chân dính máu từ từ hiện rõ.