Tiệm tạm hóa phố Hoa Kiều ở Luân Đôn này, ngoài bán tạp hóa ra còn bán thêm cả báo của Hồng Kông. Chiều nào, ở đây cũng có thể mua được báo của ngày đó. Đến phố Hoa Kiều hơn mười năm, nói bằng tiếng Quảng Đông, xem báo và phim của Hồng Kông, như thể họ chưa từng rời khỏi Hồng Kông vậy. Một người từ Hồng Kông tới đây để du học, hai năm qua, chiều chủ nhật nào cũng không quản mưa gió, đến cửa hàng này mua báo. Chủ tiệm sẽ để dành cho cô báo của cả tuần, để cô lấy đi trong một lần. Mùa đông ở Luân Đôn lạnh lẽo và u ám, đêm qua vừa có cơn mưa, nên hôm nay lại càng rét thêm. Du học sinh kia lại đến tiệm tạp hóa mua báo. Chủ tiệm bọc hết báo Hồng Kông của cả tuần trong một chiếc túi túi rồi đưa cho cô.
“Những du học sinh trẻ như cháu rất ít người còn xem báo Hồng Kông. Cháu thật quan tâm tới Hồng Kông, có phải cháu có người thân ở đó không?”
Phương Huệ Tảo mỉm cười lắc đầu, trả tiền báo rồi rời khỏi tiệm. Đến Luân Đôn hai năm, cô theo học tại một trường đại học ở ngoại ô. Tuần nào cô cũng ngồi xe điện ngầm một tiếng đồng hồ đến phố Hoa Kiều mua báo để xem tranh biếm họa của Lý Trừng. Ở trên xe, cô nôn nóng giở báo ra xem tranh của anh, thấy tranh của anh là có thể biết được anh vẫn sống tốt, cô rất yên tâm. Cô tưởng rằng có thể quên anh, hóa ra lại không thể. Ở tận chân trời góc bể, đã qua bao tháng năm, nhưng cô vẫn còn yêu anh. Tàu vào ga, một cô gái Trung Quốc bước vào toa, ngồi xuống phía đối diện Phương Huệ Tảo.
“A Tảo, là cậu ư?”
Phương Huệ Tảo ngẩng đầu lên, lúc này cô mới phát hiện người ngồi đối diện mình chính là Châu Nhã Chí.
“Cậu tới Anh mấy năm rồi?” Châu Nhã Chí hỏi cô.
“Gần hai năm.”
“Lý Trừng đâu?”
“Bọn mình chia tay rồi.”
Châu Nhã Chí thấy trên đầu gối cô bày một loạt báo củ̉a Hồng Kông, các kỳ đều có tranh biếm họa của Lý Trừng. Rõ ràng cô chưa hề quên Lý Trừng.
“Cậu thế nào rồi?”
“Tớ làm ở một tiệm đồ cổ.” Cô móc một tấm danh thϊếp ra khỏi ví, nói: “Khi nào cậu rảnh có thể đến xem.”
“Được.”
“Lâu lắm rồi tớ chưa xem báo Hồng Kông đấy.”
“Không phải lúc nào tớ cũng xem đâu.”
“Cậu đã quen với thời tiết ở đây chưa?”
“Quen rồi.”
Châu Nhã Chí phải xuống xe. Cô nói với Phương Huệ Tảo: “Lúc rảnh nhớ gọi điện cho tớ nhé.”
Phương Huệ Tảo gượng gạo gật đầu. Cô và Châu Nhã Chí đều hiểu, Châu Nhã Chí sẽ không đến tìm cô, và cô cũng sẽ không đến tìm Châu Nhã Chí. Hồi nãy vừa trông thấy nhau, các cô đã rất nhanh chóng so sánh một chút. Hai cô gái, chỉ cần từng yêu cùng một người đàn ông thì cả đời cũng sẽ so sánh với nhau. Phương Huệ Tảo cầm báo bước vào căn nhà cũ nát.
“Cô Phương, tôi chuẩn bị ăn lẩu, cô có muốn qua ăn cùng không?”Du học sinh ở cạnh nhà cô – Trầm Thành Hán sang hỏi.
“Không cần đâu, cảm ơn anh Trầm.”
Trầm Thành Hán là Hoa Kiều ở Phần Lan, đến nước Anh để học nghiên cứu. Tính cách vô cùng tốt. Đôi khi, anh sẽ nói với cô về Phần Lan. Ấn tượng duy nhất mà cô nhớ tới nó chỉ là do bố của Lý Trừng đã từng nhắc tới thành phố Rovaniemi.
“Lúc nãy cô ra ngoài quên tắt đèn đó.”
“Không phải tôi quên đâu. Mà là tôi có thói quen trước khi ra khỏi nhà sẽ để lại một chiếc đèn.”
Để lại một chiếc đèn khi ra khỏi nhà, vốn là thói quen của Lý Trừng. Cô rời khỏi anh, nhưng vẫn giữ lại thói quen đó của anh, tựa như họ chưa từng xa rời.
Tới một ngày, cô bị bệnh. Bệnh đã kéo dài hơn một tháng, nhưng Trầm Thành Hán vẫn ân cần chăm sóc cho cô. Hàng tuần, anh đều thay cô tới phố Hoa Kiều mua báo. Ở đất nước lạnh lẽo đó, Trầm Thành Hán là người duy nhất cho cô sự ấm áp. Cuối cùng cô cũng có thể rời giường, tự mình đến phố Hoa Kiều mua báo, nhưng không phải là ngày nào cũng thấy tranh biếm họa của Lý Trừng. Anh thường vẽ dở dang, bẵng qua một thời gian, lại không thấy tranh của anh trên báo nữa.
***
Năm nay, mùa đông ở Hồng Kông hình như tới rất chậm. Nhưng thể nào cũng sẽ có ngày tới, hoặc là có đêm tới. Nhiệt độ hôm nay giảm hơn hôm qua tận 6 độ.
Chạng vạng, trên đường gió bắc thổi mạnh, các sạp báo vội vã dọn hàng sớm. Lý Trừng cầm một tờ báo lên, đặt tiền xuống, xem báo dưới ánh hoàng hôn. Trên đó có tranh biếm họa do Phù Trọng Vĩnh vẽ. Bây giờ anh ta đã là một nhà vẽ tranh biếm họa có tiếng, rất được săn đón. Mấy năm trước, Lý Trừng rất cố gắng vẽ tranh biếm họa, anh biết, dù ở nơi chân trời góc biển nào đi chăng nữa, chỉ cần nơi ấy có thể mua được báo Hồng Kông, là A Tảo có thể trông thấy tranh của anh.
Biết bao lời nói, anh đều đem viết lên trên tranh. Nếu cô nhìn thấy, có lẽ cô sẽ trở về bên anh. Nhưng, cô vẫn không hề trở lại. Có lẽ cô đã không còn đọc báo Hồng Kông nữa. Từ đó, anh bỏ việc tìm cô bằng cách này. Cô đi rồi, anh mới biết mình yêu cô đến nhường nào. Những năm tháng tuổi trẻ đó, những niềm vui và nỗi đau đó, thì ra lại là quãng thời gian tươi đẹp nhất trong cuộc đời anh. Chuyện cũ càng lúc càng xa, còn hồi ức lại càng lúc càng gần.
Thời gian không thể khiến người ta quên đi tình yêu. Khi chia tay, cuối cùng người ở lại vẫn đau khổ hơn người bỏ đi. Anh vẫn ở căn nhà này đợi cô, anh sẽ không rời khỏi nơi này, nhỡ có ngày cô trở về, thì cô vẫn gặp được anh.
Thì ra, cô đã đạp xe đến nơi xa xôi kia được mười bốn năm rồi. Xe đạp đã trở về, nhưng người vẫn chưa trở về.
Lý Trừng vuốt ve chiếc xe đạp tồi tàn. Anh rất sợ. Nhưng bất kể cô còn sống hay đã chết, anh vẫn phải đi tìm cô. Anh ghi địa chỉ ở trên hòm gỗ lại, hôm sau đi làm ngay thẻ visa và mua vé máy bay.
“Bây giờ ở Phần Lan rất lạnh, có phải anh muốn đến làng ông già Nô-en không ạ?” Cô tiếp viên hỏi anh.
“Phải.” Anh nói.
Nếu như trên đời thật sự có ông già Nô-en, anh mong rằng món quà giáng sinh mình được nhận sẽ là cô được sống khỏe mạnh. Trong bưu kiện có viết là thành phố Tampere ở phía tây nam Phần Lan. Buổi tối đến Helsinki(*), Lý Trừng lại ngồi tàu hỏa đến Tampere. Đây là một đất nước có khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Tuyết rơi nhiều ngày liên tiếp, anh phải mặc bộ đồ mùa đông dày cộp, vốn vẫn chưa đủ ấm, bây giờ lại càng rét thêm. Tại sao A Tảo lại phải đến một nơi lạnh lẽo như vậy? Anh khiến cô phải chịu thật nhiều khổ sở, anh không thể tha thứ cho mình được.
(*). Thủ đô của Phần Lan.
Sáng hôm sau, tàu hỏa đến Tampere. Tuy là đang sáng sớm, nhưng đây như là một đất nước không có ban ngày vậy. Sáng sớm mùa đông cũng giống như buổi tối, tất thảy đèn đường đều sáng. Anh gọi một chiếc tắc xi, đưa địa chỉ cho tài xế. Xe dừng trước một căn nhà hai tầng, sơn trắng ở vùng ngoại ô thành phố. Trước cửa nhà chất đầy tuyết.
Lý Trừng xuống xe, tuyết rơi xuống vai anh. Cuối cùng anh cũng đã tới, tới nơi mà rơi lệ sẽ đóng thành băng, hà hơi sẽ hóa thành tuyết, tới nơi mười bốn năm qua luôn lởn vởn ở trong tâm trí anh.
Anh bấm chuông. Một lúc lâu sau, một người đàn ông Trung Quốc ra mở cửa. Anh nhìn người đàn ông đó, người đàn ông đó lại nhìn anh, dường như cả hai đã hiểu rõ phần nào câu chuyện. Trên mặt hồ ở công viên phủ kín lớp tuyết dày. Vắng tanh.
Mộ của cô ở gần hồ nhất. Trước mộ có một thiên sứ màu trắng được đẽo bằng đá cẩm thạch, cúi đầu, tay đan vào nhau, choàng trên mình bộ áo tuyết trắng vừa rơi xuống, tung bay trong gió. Trên bia đề chữ: “Mộ của vợ yêu Phương Huệ Tảo”, người lập bia là Trầm Thành Hán.
“Hôm đó, cô ấy ngất xỉu ngay tại nhà. Bác sỹ chẩn đoán cô ấy bị mắc phải Hemangioma(*), sau đó sắp xếp cho cô ấy làm phẫu thuật. Khi ấy, thứ cô ấy nhớ nhất chính là chiếc xe đạp kia. Cô ấy muốn tôi gửi chiếc xe đó về Hồng Kông cho một người. Trước ngày làm phẫu thuật, bệnh của cô ấy đột nhiên tái phát, nên cô ấy đã không thể đợi được đến lúc phẫu thuật.” Trầm Thành Hán khẽ nói.
(*). Một loại bướu mạch máu ở gan.
Lý Trừng đau đớn đứng trước bia mộ. Anh chưa từng nghĩ rằng kết cục giữa mình và A Tảo lại là thế này. Tuyết bay lất phất bên anh, anh không dám rơi lệ, sợ lệ sẽ hóa thành băng.
“Tôi chỉ biết kết băng cho mặt hồ này thôi. Đông đến, A Tảo thích nhất là đến đây trượt tuyết, nên tôi mới đem cô ấy chôn ở nơi này. Rất lâu trước đây, khu đất ở bên dưới này cũng là một cái hồ. Hai người đã từng yêu đến khắc cốt ghi tâm sao?” Trầm Thành Hán hỏi anh.
Lý Trừng không thể trả lời.
“Tôi đợi anh ở ngoài.” Trầm Thành Hán nói rồi để anh ở lại một mình.
Lý Trừng gạt tuyết trên người thiên sứ ra, dùng dao đề gạt. Tuyết lại bắt đầu rơi, nó sẽ vĩnh viễn không kết thúc. Anh vĩnh viễn đợi cô, nhưng cô không thể tới. Nếu anh không thất hẹn vào hôm họ hẹn nhau mua nhẫn mười bốn năm trước, có lẽ cô sẽ không phải ngủ dưới lớp tuyết này. Em gái từng khuyên anh, đừng làm người con gái anh yêu phải chết chìm trong nước mắt của mình, nhưng anh lại làm cô bị chết chìm trong tuyết, trong hồ.
Anh móc một chiếc nhẫn kim cương ra, mười bốn năm qua, cô chưa từng trông thấy. Nay anh đã mang đến rồi, đáng tiếc là cô không thể nhìn thấy nữa. Trên mặt hồ có mấy phiến băng to, hoặc nhỏ nổi lềnh bềnh, chưa đến một ngày, mặt hồ sẽ đóng băng. Anh bước đến bên hồ, ném chiếc nhẫn vào đó, để cho nó mang theo nỗi day dứt của anh lặn vào nơi sâu nhất ở đáy hồ, bầu bạn mãi mãi với xương cốt của cô. Cô từng nói không bao giờ muốn gặp lại anh lại, anh đã đồng ý rồi, nhưng hôm nay, anh lại thất hứa. Anh đến gặp cô, đây là lần thất hứa cuối cùng đối với cô.
Trầm Thành Hán ngồi trên xe đợi Lý Trừng ở ngoài nghĩa trang. Lý Trừng đi ra, người run lập cập.
“Anh Lý, mau lên xe đi!” Anh ta mở cửa cho anh lên xe.
Lý Trừng không ngừng run, Trầm Thành Hán liền nhét một chiếc chăn vào trong lòng anh.
“Cảm ơn anh.” Lý Trừng run rẩy nói.
“Hồi A Tảo mới tới nơi này cũng chưa quen với thời tiết giá rét như thế này, cô ấy thường bị nứt da chân.”
Xe dừng lại ở ngoài một nhà hàng Trung Quốc.
“Đây là nhà hàng do chúng tôi mở, vào uống bát canh nóng nhé.”
Nơi đây là một nhà hàng nhỏ, tường sơn màu xanh lá cây, bàn đỏ, là kiểu trang trí điển hình của quán ăn Trung Quốc. Thông thường, nó sẽ đem đến một bầu không khí vui tươi, nhưng giờ đây nó lại trở nên thật là u tối.
Trầm Thành Hán đưa một chai rượu cho Lý Trừng, nói: “Uống ít rượu sẽ ấm hơn đó.”
“Cảm ơn anh.”
“Anh Lý à, anh muốn ăn gì không?”
“Không cần đâu.”
“Thời tiết kiểu này không ăn gì là không được đâu, để tôi vào phòng bếp xem nhé.”
Điều duy nhất mà Lý Trừng có thể tha thứ cho mình, đó là A Tảo được gả cho một người đàn ông tốt. Anh nâng ly rượu lên uống, rượu đã đổ vào bụng, nhưng vẫn chẳng thể ngăn được nỗi bi ai của anh.
Trầm Thành Hán bước ra khỏi phòng bếp, bày lên bàn đĩa trứng chiên vừa mới làm.
“Anh thử xem sao.”
Lý Trừng lấy dao tách lớp vỏ trứng ra, là món trứng chiên ốc sên. Tay anh run lên.
“Tôi nói rằng nhà hàng Trung Quốc mà bán trứng chiên ốc sên thì có vẻ hơi lạ, nhưng A Tảo rất thích món này, với lại khách cũng khen nức nở, nếu không có cô ấy thì tiệm ăn này cũng không hoạt động tốt được như thế đâu.”
“Anh Trầm, tôi muốn đi tìm khách sạn.” Lý Trừng bỏ dao xuống.
“Anh không ăn à?”
“Tôi thực sự không đói.”
“Gần đây có một khách sạn nhỏ, để tôi lái xe đưa anh đi.”
“Không, tôi tự ngồi xe đi được mà.” Anh đội mũ vào.
Lý Trừng cất bước lẻ loi dưới ánh đèn đường hiu hắt. Anh đạp lên mặt tuyết, tuyết rơi lên vai anh. Trong ký ức, món trứng chiên ốc sên, những năm tháng tuổi trẻ đó, thì ra là những ngày tốt đẹp nhất trong cuộc đời anh. Tuyết tan sẽ hóa thành nước, nước sẽ biến thành hơi, sau đó lại trở thành mưa, và cuối cùng lại hóa thành tuyết. Thế nhưng, những tháng ngày tươi đẹp đó sẽ không bao giờ trở lại. Lông mi, mũi, khóe miệng của anh đều kết băng, đó chính là nước mắt của anh.
Lý Trừng đạp xe đến lớp học buổi tối mà hồi trước A Tảo từng dạy. Anh từng đứng dưới gốc cây lựu này đợi cô. Lá cây lựu nay đã khô, từng chiếc lá rơi xào xạc trên mặt đất, anh như vẫn còn nhớ rõ nụ cười mơ hồ của cô lúc ấy. Anh đạp xe băng qua con hẻm nhỏ, ngang qua nơi bọn họ từng cùng nhau đi.
Xe đạp đã trở về, người cũng đã trở lại. Cô ngồi đằng sau lưng anh, ôm lấy anh, tươi cười hỏi anh: “Anh có yêu em không?”
“Có.”
“Yêu tới mức nào rồi?” Tóc cô bay lên mặt anh.
“Đã đến mức độ nguy hiểm…” Anh nắm lấy tay cô, cất giọng nói thê lương.
-Hết-