Ai Bảo Chỉ Hoàng Tử Mới Là "Chân Mệnh Thiên Tử"

Chương 23: Khám nghiệm

Đám đông hiếu kỳ thấy chẳng còn gì để “hóng” nữa dần dần tản đi hết, chỉ trơ lại mình bọn Tâm Di.

Na Lan Đức Duật quay sang nhắc Tâm Di: “Chúng ta cũng đi thôi!”

Tâm Di đi được vài bước không hiểu sao lại quay lại, bước vào trong phòng.

Cả đám kinh ngạc nhìn nhau, cuối cùng cũng đành theo chân cô.

Tâm Di đến bên Hà Mai Hương, dịu giọng đề nghị: “Tiểu muội muội, tỷ cũng có biết chút y thuật, để tỷ xem qua thi hài mẫu thân muội được không?”

“Tỷ là ai?”

“Tỷ là ai không quan trọng, để tỷ thử kiểm tra xem, biết đâu lại có phát hiện gì.”

Hà Mai Hương sụt sịt hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ có thể tra ra thật?”

“Tỷ không dám hứa chắc, phải chờ kiểm tra xong mới biết được.” Tâm Di cũng không nắm chắc trăm phần trăm.

Hà Mai Hương lau nước mắt, nói: “Vậy tỷ kiểm tra đi!”

Na Lan Đức Duật lập tức lên tiếng ngăn cản: “Cô định làm gì thế, chẳng phải Thuận Thiên phủ đã định án rồi sao?!”

Tâm Di ngẩng đầu nhìn Na Lan Đức Duật, hỏi vặn: “Nếu là án oan thì sao?”

“Khi nãy ngỗ tác đã khám nghiệm rồi đó thôi.” Na Lan Đức Duật đáp.

Tâm Di khẽ lắc đầu: “Ngỗ tác là đàn ông, huống hồ ban nãy ông ta chỉ xem lướt qua, đâu có kiểm tra kỹ càng!” Tâm Di dùng khăn tay bịt mặt lại hỏi mượn Mei Xian một đôi găng tay, trong lúc chờ đợi cô tranh thủ quan sát quanh phòng một lượt.

Căn phòng hết sức bình thường, cửa chính hướng bắc cửa sổ hướng nam, đồ đạc không có gì đặc biệt nhưng được thu dọn khá gọn gàng sạch sẽ, chứng tỏ chủ nhân là người chăm chỉ chịu khó. Sát tường kê một chiếc giường, màn vén lên một nửa, đầu nạn nhân quay ra ngoài, chân hướng vào trong cho thấy lúc đó nạn nhân cố bò ra khỏi giường nhưng không thành công.

Tâm Di nhận lấy găng tay đeo vào rồi bắt đầu cởϊ qυầи áo người chết, mấy bậc tu mi nam tử thấy thế bèn lật đật quay mặt đi chỗ khác.

Tâm Di nhấc tay nạn nhân lên ấn thử vào da, thầm nhủ: “Căn cứ vào độ cương cứng của tử thi (1) thì thời gian tử vong hẳn là sáng sớm ngày hôm nay, khoảng canh năm, điểm này phù hợp với lời khai của cha con họ Hà.” Cô lại quan sát sơ qua biểu cảm trên mặt người chết, “Sắc mặt bà ta có vẻ rất đau đớn, theo như miêu tả của Hà Thụ Bình thì bệnh của người đàn bà này thuộc dạng mãn tính, chức năng tim không hoàn thiện. Nếu nói chết vì suy tim cũng không phải là không có lý.”

Tiếp đó Tâm Di mở khoang miệng của nạn nhân ra xem, rồi bắt đầu nắn lần theo xương từ trên xuống dưới, nhưng không phát hiện ra chỗ xương nào bị gãy cũng không thấy bất cứ thương tích gì.

Tâm Di ngừng tay, gọi: “Tiểu Trúc Tử, Tiểu Lam Tử, lại giúp ta một tay.”

Tiểu Lam Tử thất kinh hồn vía: ”A! Chúng tôi ư?”

Tiểu Trúc Tử cũng trưng ra vẻ mặt vô cùng miễn cưỡng: “Sao lại kêu bọn tôi chứ?” Nói rồi chỉ Đại Hổ và Nhị Hổ, “Bọn họ không được sao?”

“Hai người họ là đàn ông, không tiện.” Ý của Tâm Di rõ đến thế là cùng.

Tiểu Trúc Tử buột miệng nói: “Thế chúng tôi chẳng phải đàn…?” Chữ cuối cùng phải nuốt vào trong bụng không thốt ra được, cả hai đành vác bộ mặt thiểu não lết đến bên người chết.

“Lật tử thi lại cho ta.” Tâm Di chỉ huy.

Bộ dạng của Tiểu Trúc Tử không thoát qua cặp mắt Na Lan Đức Duật. Anh cứ nghĩ Lan, Trúc chẳng qua là hai người hầu, giờ mới để ý kỹ. Nhưng Tiểu Trúc Tử trông có vẻ nhỏ con, Tiểu Lam Tử cũng chẳng lớn hơn Tiểu Trúc Tử là mấy, vẫn chỉ là hai tên nhóc, không dễ phân biệt như thái giám thành niên nên dù nhìn thế nào cũng chẳng nhận ra, “Bọn họ là công công? Ngoài hoàng cung thì cũng chỉ có vương phủ là được dùng thái giám.” Ánh mắt Na Lan Đức Duật lại hướng vào Tâm Di, “Cô ấy ở vương phủ nào nhỉ? Có vương phủ nào lại để con gái chưa xuất giá chường mặt ra đường thế này!”

Tâm Di kiểm tra thi thể một lượt, phát hiện sau lưng thi thể có dấu chấm nhỏ màu đỏ: “Gì đây?” bèn thò tay sờ thử.

Na Lan Đức Duật thấy nét mặt Tâm Di hơi khác thường vội hỏi: “Cô phát hiện ra điều gì thế?”

“Anh tới xem.” Tâm Di vẫy gọi.

Na Lan Đức Duật ban đầu còn do dự vì “nam nữ hữu biệt”, về sau lại nghĩ đây cũng là để trả lại công bằng cho nạn nhân nên bình thản bước đến gần cúi xuống xem xét.

Tâm Di chỉ vào chấm đỏ: “Anh xem, là cái này.”

Na Lan Đức Duật nhìn kỹ một hồi mới cất tiếng: “Vết nhỏ thế này… như là bị ám khí giống cây kim chích phải.”

“Ám khí?” Tâm Di ngẩng đầu lên hỏi Hà Mai Hương, “Tiểu muội muội, nhị nương của muội biết võ không?”

“Muội không biết, muội chỉ biết nhị nương rành y thuật thôi.”

Tâm Di thầm nghĩ: “Mình nhớ trước kia từng xem qua một bộ phim hoạt hình, hung thủ dùng kim thêu gϊếŧ người…” Nghĩ vậy cô liền kéo áσ ɭóŧ của người chết ra xem, quả nhiên trên áo có một lỗ thủng rất nhỏ, vừa hay khớp với chấm đỏ kia.

“Vị trí này…?” Tâm Di nói với Na Lan Đức Duật, “Na Lan Đức Duật, anh xoay lưng lại chút.”

“Để làm gì?” Na Lan Đức Duật vừa hỏi vừa quay lưng lại phía Tâm Di.

Tâm Di dùng ngón tay điểm một cái vào lưng anh, nói: “Đây là vị trí vết đỏ trên mình nạn nhân.” Rồi thò đầu qua vai Na Lan Đức Duật tìm vị trí phổi, điểm một cái trước ngực: “Quả không sai!”

Na Lan Đức Duật bị cô nàng chỉ chỉ điểm điểm, lại ngửi thấy mùi hương trên mình Tâm Di liền đứng đờ ra như bị điểm huyệt, nhất thời không sao động đậy được mà thực tâm cũng chẳng muốn động đậy chút nào.

“Thủ pháp cao minh thật, tiểu muội muội, đi đánh trống lần nữa, mẹ em chắc chắn là bị mưu sát.” Tâm Di đưa ra kết luận.

Hà Mai Hương gật đầu, lập tức đứng dậy.

Na Lan Đức Duật giật mình một cái hoàn hồn, vội giơ tay ngăn cản: ”Chờ đã, cô khẳng định? Chỉ dựa vào chấm đỏ này?!”

“Đúng, chỉ dựa vào chấm đỏ này.” Tâm Di quả quyết.

“Đừng nói bừa, chấm đỏ nhỏ xíu này thì chứng minh được gì?” Na Lan Đức Duật không tin.

“Tôi đâu nói bừa, tôi có thể khẳng định với anh chấm đỏ này chính là bằng chứng vững chắc.”

“Cô có biết nếu không thuyết phục được phủ doãn Thuận Thiên, cô cũng sẽ bị hỏi tội?!” Ngữ khí của Na Lan Đức Duật hàm chứa sự quan tâm không che giấu.

“Anh lo cho tôi?” Tâm Di nghe ra bèn nhìn thẳng vào mắt anh, hỏi.

Na Lan Đức Duật nhìn cô không nói, cả hai cứ thế nhìn nhau môt lúc lâu.

Tâm Di từng trải nghiệm qua sao lại nhìn không ra ý tứ trong mắt Na Lan Đức Duật, nào dám tiếp tục nhìn anh, hấp tấp quay sang nói với Hà Mai Hương: “Bọn tỷ đi đánh trống cùng muội.”

Thấy Tâm Di kiên quyết như vậy Na Lan Đức Duật cũng không tiện ngăn nữa, trong lòng thầm nghĩ lỡ có rắc rối gì mình đành đánh tiếng với Thuận Thiên phủ doãn, nếu vẫn không được thì kéo cả bố già vào cuộc chứ không thể để Tâm Di bị “bắt nạt”.

Tiếng trống báo án vang lên lần thứ hai, dân chúng lại xúm vào.

“Ai, sao vẫn là cô bé này… Án đã định rồi còn không chịu thôi.”

Phủ doãn thăng đường, gõ án gia uy: “Người nào đánh trống?”

“Đại nhân, là tiểu nữ.” Hà Mai Hương ngẩng đầu, nói.

“Lại là ngươi? Hà Mai Hương, vụ án của mẹ ngươi đã kết rồi, bà ta chết vì bệnh chứ không phải bị gϊếŧ. Ngươi đừng đánh trống nữa, nếu còn tiếp tục gây rối đừng trách bản quan không khách sáo, thoái đường!” Phủ doãn cất bước định đi.

“Khoan! Đại nhân, Hà Hoàng thị không chết vì bệnh mà là bị mưu sát.” Tâm Di bước lên công đường.

Phủ doãn trợn mắt, nạt: “To gan, ngươi là ai mà dám nói bừa trên công đường!”

“Ta là chị của Hà Mai Hương.”

“Chị? Cô ta chẳng phải con một sao?” Phủ doãn đần mặt.

“Vừa nhận xong.” Tâm Di thuận miệng nói ra một cái cớ.

Na Lan Đức Duật thầm lắc đầu: “Tinh quái!”

“Lên công đường sao còn không quỳ?” Phủ doãn lại hỏi.

Tâm Di cười cười: “Muốn ta quỳ trừ phi ngươi không cần mũ ô sa trên đầu nữa.”

“Khẩu khí lớn thật, rốt cuộc thì ai đỡ lưng cho cô ta?” Na Lan Đức Duật càng lúc càng nhìn không thấu Tâm Di.

Phủ doãn cũng bị khí thế của Tâm Di trấn áp, không rõ lai lịch của cô nàng thế nào bèn hỏi lại lần nữa: “Cô rốt cuộc là ai?”

“Ngươi không cần quan tâm ta là ai, chỉ cần thẩm án là được.” Tâm Di bầy ra dáng vẻ cách cách.

“Được, không quỳ thì không quỳ vậy, bản quan hỏi cô, cô dựa vào đâu mà quả quyết Hà Hoàng thị bị mưu sát? Nếu không đưa ra được bằng chứng xác thực, bản quan sẽ trị cô tội náo loạn công đường.” Phủ doãn thấy Tâm Di kiêu ngạo thế cũng không dám đắc tội.

Tiểu Trúc Tử ở dưới cười hì hì, nói: “Muốn trị tội tiểu thư?! Hắn mất trí rồi.”

“Hắn đương nhiên không thể trị tội tiểu thư, nhưng nếu tiểu thư không đưa ra được bằng chứng thì cũng rầy rà lắm.” Nhị Hổ tiếp lời.

Na Lan Đức Duật nghe nói thế lại bắt đầu đoán già đoán non thân phận Tâm Di: “Cô ấy rốt cục là ai mà đến Thuận Thiên phủ cũng không buồn để mắt?”

Trên kia Tâm Di nói với phủ doãn: “Đại nhân, bằng chứng nằm trên thi thể.”

“Vậy sao?” Phủ doãn tỏ vẻ nghi ngờ, “Người đâu, gọi ngỗ tác ra đây.”

Lát sau ngỗ tác bước lên công đường.

“Ngỗ tác, vị cô nương này nói Hà Hoàng thị bị mưu sát, chứng cứ nằm trên tử thi, ngươi có gì để nói không?” Phủ doãn lên tiếng chất vấn.

“Đại nhân, lúc nãy tiểu nhân đã kiểm tra kỹ càng rồi, trên tử thi không có bất kỳ vết thương nào.” Ngỗ tác cố nhiên không thừa nhận mình khám nghiệm sai sót.

“Thủ pháp của hung thủ vô cùng cao minh, người ngoài rất khó phát hiện, huống chi khi nãy ngươi không kiểm tra lưng nạn nhân.” Tâm Di chỉ ra sai sót của ông ta, “Đại nhân, xin hãy tới hiện trường lần nữa.”

Phủ doãn không giấu vẻ bực bội: “Lại phải đi nữa?”

“Trả lại công bằng cho người chết vốn là chức trách của phủ doãn đại nhân ngài, nếu không đi, ngài có nghĩ đến hậu quả?” Tâm Di chỉ vào đám đông bên ngoài, “Mắt bách tính sáng lắm, ngài cho rằng có thể che mắt bịt miệng chừng ấy người?”

“Đúng lắm… Vị cô nương này nói đúng lắm…” Đám đông bên dưới ồ lên hưởng ứng.

Trước tình thế này phủ doãn đành phải đến nhà họ Hà thêm lần nữa.

Tới Hà gia, thấy Hà Thụ Bình đương thay y quan khâm liệm cho vợ, Tâm Di vội hét lớn: “Đợi đã, chút nữa hẵng thay.” Cô vén áo người chết lên, nói với phủ doãn và ngỗ tác, “Các người xem, lưng nạn nhân có một chấm đỏ.”

“Thứ này nói lên được điều gì, cũng có thể là bị muỗi đốt mà!” Ngỗ tác căn bản không buồn nhìn.

“Bây giờ là mùa đông lấy đâu ra muỗi, kể cả bị muỗi đốt đi nữa thì cũng phải phồng lên chứ, ngươi thử sờ xem có phồng lên không hả!” Tâm Di hết sức bất mãn với thái độ của ngỗ tác.

Ngỗ tác bất đắc dĩ phải đưa tay ra kiểm tra.

“Ngỗ tác, có bị phồng lên không?” Phủ doãn hỏi.

“Bẩm đại nhân, không có.” Ngỗ tác vẫn tìm cách vặn lại Tâm Di, “Nhưng trên người có chấm đỏ là chuyện bình thường, cô dám nói cô không có không?”

“Không sai, trên người có chấm đỏ rất bình thường, nhưng…” Tâm Di kéo áσ ɭóŧ của người chết xuống, chỉ vào lỗ thủng nhỏ xíu trên đó, nói: “Nhìn kỹ đi, lỗ thủng trên áo bà ta vừa khéo trùng với vị trí chấm đỏ kia, ngươi giải thích thế nào đây?”

“Có thể là bà ta sơ ý…” Lời ngỗ tác bị Tâm Di cắt ngang, “Ngươi có uốn lưỡi trước khi nói không đấy? Ngươi làm ngỗ tác, khám nghiệm tử thi đòi hỏi thực tế, về ngâm cứu “Tẩy oan tập lục” của Tống Tử (2) xem người ta khám nghiệm tử thi thế nào.”

“Ta khám nghiệm tử thi mười mấy năm chưa từng sai sót, không cần tiểu nha đầu như ngươi giáo huấn, lúc ta theo nghề này ngươi còn chưa sinh ra nữa là!” Ngỗ tác cáu tiết.

Tiểu Trúc Tử lớn giọng đáp lễ: “Ngươi chán sống rồi, dám mắng tiểu thư nhà chúng ta.”

Tâm Di xua tay ngăn Tiểu Trúc Tử, bụng nghĩ: “Đúng là ta chưa ra đời, ngươi hơn ta những ba trăm tuổi ấy chứ.”

Tiểu Trúc Tử không làm sao được, đành lẩm bẩm trong miệng: “Tiểu thư thật quá độ lượng.”

“Ngươi đừng nhao nhao lên nữa, tiểu thư nhất định có cách khiến gã ngỗ tác đó ngậm miệng.” Tiểu Cát Tử kéo Tiểu Trúc Tử.

Chỉ nghe Tâm Di nói tiếp: “Mười mấy năm không sai sót không có nghĩa lần này không sai sót, thực tế chứng minh! Ngươi sơ ý tạo ra một lỗ thủng nhỏ tại vị trí này trên áσ ɭóŧ cho ta xem xem, làm thành lỗ thủng nhỏ như vậy chỉ có một khả năng duy nhất chính là kim thêu.”

“Ý cô là kim thêu đâm chết bà ta?” Ngỗ tác phản vấn.

“Đúng.” Tâm Di khẳng định.

“Nực cười, kim thêu sao có thể đâm chết người?” Ngỗ tác cười khẩy.

Tâm Di chẳng bận tâm đến vẻ mai mỉa của ông ta: “Đương nhiên có thể. Nếu hung thủ vừa biết võ công lại hiểu y lí thì dư sức làm được.”

Phủ doãn “chộp” được mấu chốt, vội hỏi: “Hà Mai Hương, nhị nương ngươi có biết võ không?”

“Dân nữ chỉ biết bà ta giỏi y thuật, còn về võ công thì quả tình không được rõ.” Hà Mai Hương thành thật trả lời.

“Đại nhân cứ cho gọi nhị nương của Mai Hương ra hỏi là biết ngay.” Tâm Di đề nghị.

Phủ doãn khẽ gật đầu: “Được, đi truyền nhị nương của Hà Mai Hương tới đây.”

Đám đông đứng xem càng lúc càng phấn khích: “Này, mọi người nói xem Hà Hoàng thị rốt cục có phải là bị mưu sát?… Tôi thấy có khả năng, cô gái đó khá là tự tin… Chả phải, nhóc con hiểu gì, muốn khoe mẽ ấy mà!”

Tiểu Trúc Tử nghe rõ mồn một, muốn nhảy đổng lên: “Hừ, tiểu thư chúng ta không hiểu, ngươi hiểu chắc? Nói cho ngươi biết, tiểu thư ta bảo là mưu sát thì nhất định là mưu sát.”

“Tiểu thư nhà ngươi nào phải thần tiên, huống chi phá án vốn coi trọng bằng chứng.” Na Lan Đức Duật từ đầu đến cuối không thốt ra lời nào, giờ mới xen vô.

“Na Lan… thống lĩnh, người khác không tin tiểu thư chúng tôi cũng đành, sao ngài cũng không tin?” Đại Hổ ủng hộ Tiểu Trúc Tử.

“Đúng đấy, cứ chờ xem, tiểu thư chúng ta nhất định sẽ khiến các người tâm phục khẩu phục.” Tiểu Trúc Tử sớm đã thần tượng Tâm Di vượt trên cả Na Lan Đức Duật.

“Ta chỉ tin vào chứng cứ.” Na Lan Đức Duật vẫn kiên trì bảo lưu ý kiến.

Không bao lâu Lý Ngọc Thuyền liền có mặt, Na Lan Đức Duật để ý thấy dáng đi của Lý Ngọc Thuyền, bất giác nhíu chặt lông mày.

“Đại nhân, đã đưa Lý Ngọc Thuyền đến.” Nha dịch bẩm báo.

“Dân phụ Lý Ngọc Thuyền khấu kiến đại nhân.” Lý Ngọc Thuyền quỳ xuống nói.

Tâm Di chăm chú quan sát Lý Ngọc Thuyền. Người đàn bà này khoảng ba mươi tuổi, gương mặt vốn dĩ xinh đẹp thanh tú lại thêm một lúm đồng tiền ẩn hiện nơi khóe miệng khiến dung nhan càng thêm cuốn hút.

“Người đàn bà này đẹp hơn Hà Hoàng thị nhiều, chả trách Hà Thụ Bình thiên vị bà ta.” Tâm Di nghĩ thầm.

Phủ doãn hỏi Hà Thụ Bình: “Hà Thụ Bình, thϊếp ngươi có biết võ công?”

“Thưa đại nhân, không ạ.” Hà Thụ Bình đáp.

Na Lan Đức Duật không nén được chỉ trích: “Hà Thụ Bình, ngươi nói láo.”

Phủ doãn ngoảnh đầu về hướng phát ra tiếng nói, không đợi ông ta lên tiếng, Na Lan Đức Duật phất áo bước vào trong phòng.

“Thì ra là Na Lan thống lĩnh.” Phủ doãn biết mặt Na Lan Đức Duật.

Na Lan Đức Duật chắp tay đáp lễ: “Phủ doãn đại nhân thứ lỗi, cắt ngang buổi xử án của ngài rồi.”

Phủ doãn cũng khách khí hỏi: “Na Lan thống lĩnh, sao ngài biết Hà Thụ Bình nói dối?”

“Phủ doãn đại nhân, lẽ nào tôi lại không phân biệt được một người có võ công hay không?” Trên phương diện này, Na Lan Đức Duật khá là tự phụ.

“Cũng phải, Hà Thụ Bình, ngươi còn không mau khai thật.” Phủ doãn đương nhiên tin Na Lan Đức Duật.

Hà Thụ Bình lập tức kêu oan: ”Na Lan đại nhân, thϊếp tiểu nhân quả thực không biết võ, trước đây nàng cũng từng sống ở kinh thành, bà con lối xóm đều có thể làm chứng nàng mảnh mai yếu ớt, hoàn toàn không rành võ công.”

“Bước đi của người thường vốn nặng nề, người luyện võ thì khác hẳn, võ công càng cao, bước chân càng uyển chuyển nhẹ nhàng.” Na Lan Đức Duật nhìn vào Lý Ngọc Thuyền, nói.

Lý Ngọc Thuyền không biến sắc mảy may, như chẳng hề nghe thấy những lời vừa rồi của Na Lan Đức Duật.

“Hà Thụ Bình, ngươi chẳng hiểu gì về người cùng chăn gối với ngươi, cô ta không những biết võ mà võ công còn cao hơn ngươi nữa kìa.” Thấy thần thái Lý Ngọc Thuyền bình thản vậy, Na Lan Đức Duật bắt đầu đề cao cảnh giác.

Hà Thụ Bình vẫn không tin: “Không thể nào!”

—————

Chú thích:

(1) Trong tình huống bình thường, thi thể sau khi chết khoảng 2 giờ 30 phút sẽ bắt đầu cứng, từ 9 giờ đến 12 giờ thì cứng đơ hoàn toàn, đến 30 giờ thì mềm trở lại, 70 giờ thì khôi phục nguyên dạng, cơ thể bắt đầu phân hủy.

(2) “Tẩy oan tập lục”: được viết bởi Tống Từ (1186-1249), tự Huệ Phủ, người huyện Kiến Dương, tỉnh Phúc Kiến thờiTống. Ông xuất thân ở một gia đình quan quyền bậc trung, cha là Tống Củng, quan tiết độ của Quảng Châu. Ông là nhà pháp y học trứ danh đời cổ xưa của Trung Quốc và cũng là của thế giới. Quyển “Tẩy Oan Tập Lục” ghi chép: giải phẫu thân người, kiểm nghiệm thi thể, kiểm tra hiện trạng, giám định một số nguyên nhân cơ giới tính nào gây tử thương… các tri thức về mọi mặt, liệt cử các loại độc vật mà đương thời có thể dùng để tự sát hoặc mưu sát cùng với cách cấp cứu, phương pháp giải độc; phạm vi luận thuật gần như bao quát các hạng mục chủ yếu về kiểm nghiệm pháp y, nội dung cũng gồm đủ các tri thức sơ bộ về các mặt nhu yếu của sự kiểm nghiệm hiện đại, có giá trị khoa học tương đối cao. Quyển “Tẩy Oan Tập Lục” ra đời năm 1247, sớm hơn quyển sách cùng loại do Fortunato Fidelis và Paolo Zacchia (người Italia) trứ tác trên 450 năm. Từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19, sách này được liên tục dùng hơn sáu trăm năm, luôn là một quyển ‘đầu bàn’ mà quan viên hình pháp thời xưa của Trung Quốc phải có.