Ma Hốc Củi

Chương 1

Quãng thời gian lịch sử mà nhân loại đã trải qua, kéo dài vô số năm tháng. Cũng kèm theo đó là sự xuất hiện những tích chuyện hết sức ly kỳ mà mỗi một vùng đất đều tự tô vẽ thêm về sự huyền ảo của nó.

Rừng rú có lắm ma cỏ, người xuôi có những con ma chết oan uổng đội mồ sống lại để tìm kẻ ác đã reo rắc tội lỗi cho họ. Đi đâu cũng đều gặp những chuyện mang sắc màu đầy yếu tố tâm linh nên xuất hiện lắm kẻ sinh ra cái tục truyền miệng về những điều trong cõi huyền ảo.

Trong những câu chuyện được truyền miệng ấy, lại có thực có hư không biết rõ sao mà tả. Nhưng nếu nó đã tồn tại thì ắt hẳn là phải có nguyên nhân, hoặc chí ít ra thì kẻ đã bịa đặt ra những thứ ấy để thêm mắm thêm muối vào cho ly kỳ cũng phải nghe từ tai của một kẻ khác.

Kể đến đồng bằng thì có giống loài ma nước, ma da, ma thần vòng, ma gọi hồn… Mà vùng cao thì cũng có lắm loại ma rừng như ma cà rồng, ma thác đuối, ma hốc củi… Những loài ma này đều mang trong mình những đặc tính khác nhau, nhưng chung quy ra thì cái giống loài ma quỷ nếu đã còn trên nhân thế ắt hẳn đa phần sẽ quấy quả người sống theo cách của chúng. Quấy quả ở đây có thể hiểu theo nghĩa tốt, hoặc theo nghĩa xấu. Nghĩa tốt là dù chúng có chủ tâm hại người, nhưng sau cùng lại muốn thúc đẩy con người ta đi đến cái thiện để sửa đổi bản thân. Nghĩa xấu là chúng táng tận dùng thứ năng lực huyền bí để ám ảnh, để gϊếŧ hại, hoặc chỉ là một thứ thói quen khi lúc chúng còn sống thường hay làm vậy, vô tình gây nên sự khó chịu cho người khác.

Nơi vùng cao tồn tại một loài ma quỷ thường xuyên gây nên sự khó chịu cho dân bản xứ. Chúng không có ác ý, nhưng đôi khi sự đùa nghịch một cách thái quá của chúng đã gây nên những tội ác đáng trách.



Bà Chắn dốc gánh củi địu lên lưng, rồi bàn chân bà nhanh thoăn thoắt đi theo lối đường mòn ở ven dốc đồi, chạy hì hục xuống dưới chân đồi để kịp về nhà trước khi trời tối.

Bà Chắn năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, vốn cũng đã nên nghỉ ngơi ở nhà với độ tuổi này. Bởi vì bà đã có con, có cháu. Con bà cũng ba mươi mấy tuổi đầu rồi, cháu bà thì cũng đã ngấp nghé sắp lớn cao bằng ngọn cỏ lau.

Nhưng bà không nghỉ ngơi, là bởi vì nhà bà nghèo. Con trai bà lấy vợ đã lâu mà chỉ sinh được đứa cháu gái, không có cháu trai khỏe mạnh để đi rừng thay bà. Con trai bà tên A Sinh, là một người đẹp trai khỏe mạnh trong bản.

A Sinh từ khi lấy vợ thì chẳng mấy khi ở nhà mà toàn xuống núi để đi làm thuê. Nhưng cũng chính vì A Sinh đi làm thuê, nên cuộc sống của gia đình bà mới không bị thiếu đói, không giống như hầu hết các hộ trong bản, chỉ quanh năm mùa rẫy nên không đủ ăn.

Sắc trời dần ngả sang màu vàng óng, rồi chuyển mỡ gà, lại đến đỏ au. Đấy chính là ánh hoàng hôn theo cách mặt trời lặn ở vùng này.

Ở đây người ta có tục thường tối kị không hay về muộn, đặc biệt là trời vào đêm thì họ sẽ không bao giờ băng qua rừng, lội qua suối. Họ cho rằng nếu họ làm như vậy là phải tội với thần rừng, sẽ bị ma rừng theo đuổi, phá hại.

Khi đêm xuống, nếu chưa kịp về bản, thì tốt nhất là nên tìm một cái chòi canh rẫy nào gần đấy, chui vào đó đốt lửa ngủ tạm. Nếu trốn trong chòi canh rẫy và có ánh lửa, lũ ma rừng sẽ không biết rốt cuộc trong chiếc chòi đó có bao nhiều người, vì vậy mà không dám giở trò trêu chọc.

Khi bà Chắn ở trên đỉnh đồi, cạnh mép rừng tre thì trời đã đổ mỡ gà. Và giờ đây khi bà xuống đến lưng chừng đồi, thì sắc mặt trời đã chuyển sang đỏ au. Vậy có nghĩa là đêm nay bà không còn kịp về nhà nữa. Vì từ lưng chừng đồi cho tới bản, đi cũng phải mất hơn một tiếng đồng hồ, có về kiểu gì cũng dính phải trời đêm.

Bà Chắn suy nghĩ hồi lâu, bèn gác bó củi để tạm qua một chỗ, rồi bắt đầu đảo mắt nhìn quanh tìm rẫy. Khu vực này đã là ở rất xa bản Cọ, vốn rất ít người sẽ tới đây để canh tác. Thế nhưng không hẳn là không có người làm nương ở đây. Qua sắc sáng nhá nhem của trời chiều muộn, bà Chắn có thể dễ dàng nom thấy cách đấy không xa, giữa một đám cây bụi um tùm có một cái chòi canh nương cũ kĩ. Cái chòi ấy ẩn nấp sau đám cây dại, rất khó mà nhìn thấy. Nhưng đối với một người đi rừng tinh tường như bà Chắn thì không khó để nhận ra nơi đó có một cái chòi.

Cái chòi cao độ đầu người, sàn cách mặt đất chỉ độ bảy mươi xen ti mét. Độ cao như thế chỉ để người canh nương tránh những loại dã thú nhỏ.

Bà Chắn không ngần ngại đi thẳng về phía ấy, dùng dao phát tạm đám cây bụi cho lộ ra một lối đường đi quang đãng. Cái chòi cũ kĩ dần lộ ra trước mắt bà. Gỗ chòi đã chuyển màu đen, trong chòi sực nức lên mùi nấm mốc rất khó chịu.

Cái chòi này hẳn là một cái chòi canh nương vào mùa, mà trước đây người chủ của nó đã dựng tạm lên. Chỉ có điều nhìn tình cảnh này thì bãi nương này đã bị bỏ hoang đến mấy mùa rẫy, bằng không đám cỏ dại cũng chẳng thể mọc tốt được đến như thế.

Giữa khu rừng vắng, lại có một căn chòi nghiễm nhiên đứng sừng sững, khiến cho người ta có cảm giác hơi u tịch. Cái màu đỏ au của bầu trời với cái sắc tối đen của không gian khiến người ta nhìn vào mà chỉ như muốn ngộp thở bởi những khung cảnh quá đỗi bí bách.

Bà Chắn mau lẹ mở cánh cửa gỗ, rồi chui tọt vào trong chòi. Lại đem mồi lửa ra nhóm tạm vài thanh củi. Gánh củi này vừa đủ để gia đình bà Chắn sống qua cái lạnh trong vòng một tuần. Vốn ra thì chỉ đi một hôm là có đủ củi, mà vẫn về kịp. Nhưng hôm nay cũng bởi vì bà Chắn vướng bận một chuyện nên thành ra mới về muộn như thế.

Chuyện là hồi chiều bà đi ngang qua con suối gần rừng nứa, bà phát hiện có một con nai đang bị mắc kẹt ở một cái khe đá dưới suối. Nó vùng vẫy cố thoát hồi lâu mà không được nên đã thấm mệt và nằm gục xuống mặt nước. Bà Chắn khi đi qua chỗ ấy thấy con nai bị mắc kẹt thì mừng lắm. Bà vụng về trèo ra chỗ khe đá nơi con nai bị mắc kẹt, tính lấy dây rừng buộc vào cổ nó. Rồi gỡ cho chân nó khỏi mắc kẹt. Lại đem nó về nhà thì cũng được một bữa thịt thơm ngon, còn có thể bán được chút tiền nữa.

Nhưng con nai đó quả thật là khôn lanh, ban đầu nó giả vờ ngoan ngoãn nằm im để bà Chắn gỡ cái chân bị mắc kẹt của nó ra khỏi khe đá. Rồi ngay sau đó, chỉ chờ khi thoát được cái chân ra là nó đã vùng lên l*иg lộn chạy như bay. Bà Chắn cũng đã có tuổi, vốn sức khỏe cũng đã có phần giảm sút. Thế nhưng không chỉ vì lý do ấy mà bà làm vuột mất con nai. Mà lý do bà làm vuột mất con nai ấy là bởi vì quá đỗi bất ngờ trước hành động của nó. Nó vụt khỏi tay bà khiến cho bà ngã chới theo, đầu đập xuống mặt đá, máu chảy be bét. Cũng còn đỡ là trong cái rủi còn có cái may. Bà bị đập đầu vào đá nhưng không bị thương nặng, chỉ bị xước sát nhẹ sơ sơ.

Vì vừa vụt mất con nai đang tiến ngẩn tiếc ngơ nên bà Chắn cứ ngồi yên một chỗ như mất hồn một lúc lâu. Sau đó lại còn phải tốn thời gian đi tìm mớ lá nhai vụn đắp lên vết thương ở trán để cầm máu. Thành ra một buổi đi rừng lần này khiến bà Chắn bị lỡ mất giờ về sớm.

Giờ này ngồi trong căn chòi, bà chắn đem bã lá nhai vụn gỡ xuống để xem xét. Máu trên trán bà đã rịt hẳn không còn chảy nữa, nhưng vẫn còn rất đau. Bà Chắn ngồi tựa vào mép chòi làu bàu đi làu bàu lại trách cứ mình dại dột. Đáng lẽ ra bà phải nên cẩn trọng buộc một đầu dây vào một nơi chắc chắn, rồi mới gỡ cái chân bị mắc kẹt cho con nai.

Nghĩ đi nghĩ lại thì mọi sự dại dột cũng đã qua rồi, bà Chắn chỉ có thể ngồi đó than vãn mà thôi.

Bà Chắn rút từ đáy gánh gủi ra vài thanh củi nhỏ, chất thành đống cho ngay ngắn rồi cho mồi lửa đốt lên. Đêm tối ở nơi vắng vẻ, lại không chuẩn bị thêm đồ ăn để sẵn. Bà Chắn chỉ có thể ngồi ôm cái bụng đói đang sôi réo lên sùng sục, cố nhắm chặt mắt lại để ngủ. Mong sao giấc ngủ có thể xua tan đi được cái đói, cái lạnh.