Công Nguyên năm 211, Lưu Bị đích thân suất quân dấy binh Hán Trung, chọn tuyến đường Ích Châu.
Đêm trước trận chiến sợ bóng sợ gió, trong thành tuấn mã truyền báo khắp nơi, đuốc sáng rực con đường, một đêm không ngủ, quân nhu dụng phẩm ùn ùn xuất thành, ở ngoại thành, xe chở hàng vận tải lương thực từ bốn phương tám hướng kéo về, tập trung ngoài bình nguyên.
Nơi cổng thành dựng nên một đài tuyên thệ cao vυ't, ngọn lửa trong bồn dầu chiếu đỏ rực nửa màn trời đêm.
Lưu Thiện cõng Khương Duy, hai đứa thiếu niên lang xuyên qua con phố dài trở về chỗ ở của Triệu Vân. Không biết Triệu Vân đã đi đâu, có lẽ thời gian này bất luận là ở lại thủ hay tùy quân cũng đều phải bận bịu chuẩn bị đến sứt đầu mẻ trán, không rảnh để ý tới bọn họ nữa.
A Đẩu đẩy cửa vào nhà, quay lưng, để Khương Duy ngồi lên tháp, nhìn đầu gối sưng đỏ của Khương Duy, Khương Duy hỏi: “Ngươi đói bụng chưa? Sư phụ không ở nhà, cơm tối vẫn chưa nấu”
A Đẩu nhún nhún vai, xoay người đi múc chậu nước, ngồi xổm trên mặt đất giúp Khương Duy rửa chân, nước trong giội lên đầu gối, cảm giác lạnh buốt thấm vào xương cốt, Khương Duy thở phào.
A Đẩu rửa chân cho hắn xong, chợt nổi tính trẻ con, nhéo mạnh mắt cá chân Khương Duy, chỗ đó vốn có một huyệt vị, Khương Duy chịu đau không nổi, thất thanh nói: “Ngừng!” Đoạn ra sức giãy dụa, làm tóe nước lên khắp người A Đẩu, lập tức hai người xoay tới xoay lui, cười giỡn ầm ĩ, A Đẩu nghiêm giọng nói: “Ta đi mua thức ăn, sư phụ có để tiền lại không?”
Ra gian ngoài, nghe Khương Duy ở gian trong nói vọng ra: “Trong ngăn kéo nhỏ ở cái bàn màu đỏ ấy”
A Đẩu tiện tay kéo hộc gỗ, thấy trong hộc chỉ có một đồng tiền đồng nằm trơ trọi, bèn quăng bộp hộc tủ lên, khom eo kéo tay nắm phía dưới, hỏi: “Ngăn thứ mấy?” Đồng thời mở tới mở lui mấy cái ngăn như đang kéo
ống bể*, ở ngăn cuối cùng chỉ có một khối chặn giấy bằng cẩm thạch, đè một tờ giấy Tuyên mỏng.
[*Một đồ dùng để thổi hơi vào một lò nung kim khí cho tan ra, xem hình minh họa bên dưới]
Gian trong đáp: “Ở ngay ngăn đầu tiên, mấy ngăn khác không có. Đừng lục bậy đồ của sư phụ, bằng không chờ người trở về coi chừng da ngươi…”
A Đẩu cười mở tờ giấy Tuyên ra, trên giấy dùng mực nước vẽ bóng lưng của một nữ nhân, nét mực đậm mờ mịt khiến trang giấy tràn ngập hơi thở mùa đông, nữ tử nọ mặc một bộ y phục trắng thuần, bào đái kéo dài chấm đất, hòa làm một sắc cùng bạch tuyết phủ kín, một nhành mai vấn suối tóc dài mượt, khí thế tao nhã xuất trần hoàn toàn hiển lộ.
“Họa công không tồi” A Đẩu nói: “Lão bà hay tình nhân của sư phụ vậy?”
Khương Duy cười nói: “Không biết, lần trước ta nhìn lén, thế là ăn mười gậy”
A Đẩu bĩu môi: “Nói không chừng quay mặt lại chính là mắt lé á!” Khương Duy cười ầm ĩ một trận, A Đẩu lấy luôn miếng tiền đồng Triệu Vân cất trong hộc tủ, đâm ra khó chịu, nhỏ giọng nói: “Tiền dành dụm của sư phụ chỉ có nhiêu đây thôi sao, thật không biết quản lý tài sản…”
A Đẩu đem toàn bộ tài sản của Triệu Vân – một miếng tiền đồng lớn – ném lên ném xuống trong tay, ra cửa quẹo phải, mua hai cái bánh nướng, trong chiếc bánh được bẻ ra làm hai có kẹp
hồng du tịnh nhục*, kế bên hàng bánh nướng có dưa chua, để người mua dùng chung với bánh. A Đẩu dùng giấy dầu gói bánh nướng lại, rồi lấy cái bát to đựng dưa chua, túm vạt áo, không nói hai lời xúc nửa bát.
[*thịt sấy xào với đậu khô, tỏi và các gia vị khác]
“Sao?” A Đẩu thấy lão bản hàng bánh nướng và mấy tên khách hàng đồng loạt nhìn mình, bèn không chút khách khí trừng lại, trong lòng ấm ức, nói: “Dưa chua đáng mấy đồng, lão tử là thái tử gia thành Kinh Châu đấy!”
“…”
Nương theo ánh lửa đêm mờ ảo, khách hàng và lão bản rốt cuộc nhận ra, cái đứa giành nửa bát dưa chua, nghênh ngang rời đi kia chính là con trai độc nhất của Kinh Châu Mục…Lập tức rầm rầm té xỉu nguyên hàng.
Tối đến Khương Duy và A Đẩu ăn một miếng bánh nướng, hai ba miếng dưa chua, ăn đến khi cổ họng mặn chát, khát nước vô cùng, ai nấy tự đi rót hai bầu nước. A Đẩu cũng không quay về Châu Mục phủ mà nằm ngủ ngay bên cạnh Khương Duy. Quỳ cả ngày, đều mệt mỏi rã rời, A Đẩu kéo cánh tay Khương Duy qua, gối phía dưới, ôm nhau nhập mộng.
Trong mơ, bức tranh thủy mặc vẽ bóng lưng nữ tử kia mông lung, A Đẩu cảm thấy quan hệ giữa mình và nàng cực thân cận, song chung quy chính giữa vẫn còn cách một tầng, như bị bao phủ bởi một lớp lụa mỏng, muốn đưa tay sờ, nhưng sờ không tới.
“Nàng là ai? Sao thấy thân thiết quá?”
A Đẩu lại nhìn thấy bức họa kia, nhưng đã là buổi sáng của nửa tháng sau, ở trong phòng Tôn Thượng Hương. Kỹ xảo vẩy mực gần như giống hệt nhau, bức họa kia viền vàng, treo trên một góc tường rất không bắt mắt.
Tôn Thượng Hương còn chưa rời giường, thị nữ đậy kín miệng một hũ mật ong, đặt trên bàn, đây là mật mà lúc sáng sớm tiểu chủ công tới yêu cầu, muốn mang về cho Khương Duy làm nước mật uống.
“Thư?” A Đẩu liếc nhìn trên bàn, một phong thư bằng gấm xanh mỏng lẳng lặng nằm đó.
Thị tỳ nhỏ giọng nói: “Thư nhà Giang Đông đưa tới”
A Đẩu gật gật đầu, thấy trong mắt thị nữ kia có chút sợ sệt, bèn không hỏi nữa, quay đầu ngắm nhìn bức họa kia, hắn cũng chẳng vội trở về. Lát sau Tôn Thượng Hương rửa mặt xong, ngáp một cái, dịu dàng ngồi bên bàn, biếng nhác mỉm cười: “A Đẩu nhớ mẹ sao? Tháng này thư nhà tới sớm những mười ngày?”
A Đẩu chỉ nghĩ “Mẹ” là Tôn Thượng Hương tự xưng, bèn quay đầu qua cười nói: “Nhớ món ngon ở chỗ di nương nên tới nè”
Tôn Thượng Hương sẳng giọng: “Đừng đứng dưới bức họa của mẹ ngươi nữa, không thôi chút lại đỏ mắt”
A Đẩu thất thanh nói: “Cái gì? Nàng là mẹ ruột của con sao? Là Cam phu nhân?”
Tôn Thượng Hương giật mình tại chỗ, A Đẩu lập tức cảm thấy câu hỏi này cực kì không ổn, vội cười lấp liếʍ: “Không không, ý con là, con quên mất tiêu dáng dấp mẹ ra sao rồi. Mới sáng sớm thức dậy đầu óc chưa tỉnh táo…”
Tôn Thượng Hương thở dài, nói: “Qua đây” A Đẩu thong thả bước qua, nhịn không được hỏi nữa: “Bộ dáng mẹ con thế nào, xinh đẹp không?”
Tôn Thượng Hương chỉ nghĩ rằng bệnh ngốc của A Đẩu phát tác, bảo hắn ngồi xuống, đưa bàn tay ngọc vuốt ve mái tóc A Đẩu, cười nói: “Mẹ con không xinh đẹp, thì sao sinh được búp bê sứ như con đây? Soi gương thì biết, tiểu mỹ nam bại hoại mi thanh mục tú con không phải giống mẹ tám chín phần sao…” Tôn Thượng Hương thấy A Đẩu mất hồn mất vía, sợ gợi lên nỗi bi thương nhớ mẹ của hắn, bèn nói: “Nào, di nương đọc cho con nghe, xem Đông Ngô có chuyện gì vui không, đừng nghĩ tới bức họa đó nữa”
Lực chú ý của A Đẩu hoàn toàn không nằm trên bức thư nhà của Tôn Thượng Hương, vô số cảnh tượng hiện lên trong não:
Cam phu nhân từng là mỹ nữ trứ danh Tam Quốc, năm đó Triệu Vân đơn thân độc mã, đột phá phòng tuyến mười vạn Tào quân, quay lại cứu Cam phu nhân và Mi phu nhân như thế nào, Mi phu nhân nhảy xuống giếng, nhưng Cam phu nhân bị Triệu Vân ngăn cản. Cam phu nhân là mỹ nữ trứ danh thời đại Tam Quốc, anh hùng cứu mỹ nhân, Triệu Vân ra sức ngăn cản nàng tự vẫn ra sao, khuyên lơn thế nào, cam đoan làm sao…
Nào là “Tử Long phụng mệnh chủ công tới cứu phu nhân, cho dù tan xương nát thịt, máu chảy đầu rơi, cũng không để phu nhân chịu nửa điểm thương tổn, cầu phu nhân đừng xem nhẹ bản thân”
Hay “Ai mà không chết?” Hay chăm chú nhìn nhau, đơn giản một câu: “Tử Long tuyệt đối sẽ không bại, thỉnh phu nhân phó thác tính mệnh cho ta”
Nhưng thiên ngôn vạn ngữ, cuối cùng hóa thành một đạo gông xiềng; thê tử của bằng hữu, không thể mạo phạm.
Thì ra bao nhiêu năm nay, Triệu Vân vẫn luôn đem lòng yêu mến cất giữ trong tim, là lúc cứu chủ ở dốc Trường Bản đã yêu Cam phu nhân, hay lúc đầu bôn Lưu Bị đã nhất kiến chung tình với nàng, nhưng chưa từng biểu lộ nửa phần?
Từ khi Triệu Vân đến dưới trướng Lưu Bị, liền kiên trì không tái giá, có lẽ chuyện xảy ra vào trước trận chiến Xích Bích.
Qua vài năm sau, Cam phu nhân nhiễm trọng bệnh, hồn quy ly hận thiên, Triệu Vân ngày ngày đối diện cùng tiểu đồ đệ có dung mạo tương tự Cam phu nhân, đó là kiểu giày vò như thế nào?
Lưu Bị vứt vợ bỏ con, chật vật trốn chạy; Triệu Vân lực địch vạn quân, trọng tình trọng nghĩa; tư duy A Đẩu như ngựa thoát cương, không còn nghe thấy tiếng khóc, tiếng la của Tôn Thượng Hương nữa.
Một lúc sau thị nữ cả phòng bận rộn, A Đẩu mới hồi thần lại, Tôn Thượng Hương đã sớm ra khỏi cửa như một trận gió, hắn mở bức thư trên bàn nhìn thoáng qua, chỉ thấy một câu xúc mục kinh tâm trên tờ giấy trắng:
“Mẫu thân trọng bệnh, sợ không còn bao lâu nữa, mau về”
“Di nương!” A Đẩu vội rời phòng đuổi theo.
Người đón Tôn Thượng Hương có lẽ đã chờ sẵn ngoài
nhị môn*, vừa thấy chủ mẫu ra, lập tức dắt ngựa đã chuẩn bị tốt, lên ngựa quyết tuyệt rời đi.
[*cửa chính trong sân thường có hai lớp, nhị môn là lớp thứ hai]
Một con tuấn mã vội vã phi tới bến đò, A Đẩu tung mình xuống ngựa, rảo bước chạy nhanh về phía con thuyền buồm cỡ trung xa xa, thuyền buồm đỗ trên sông, phương xa sóng nước lăn tăn trong ánh rạng đông, dõi mắt nhìn, mặt nước như chạm vào chân trời. Dưới trời quang vạn dặm, chiếc thuyền kia có vẻ đã được chuẩn bị từ sớm, ván thuyền chưa rút, buồm giương gần một nửa, chỉ có một binh sĩ mang đao cùng Tôn Thượng Hương sóng vai cúi đầu nói gì đó, dẫn nàng vào thuyền.
May mà còn kịp, A Đẩu hít vào một hơi, hô “Di nương!” Cước bộ không ngừng, hai người cách nhau rất xa, Tôn Thượng Hương đã cúi đầu đi vào khoang thuyền, nhưng binh sĩ nghe được tiếng A Đẩu gọi, tay đè chuôi đao, xoay người qua.
Vẻ mặt tiểu binh kia ngang ngược, mắt lộ hung quang, đè thấp giọng nói: “Kẻ nào to gan?”
A Đẩu cười lạnh nói: “Ngươi rõ ràng nghe thấy ta gọi mới xoay lại, đã nghe rõ thì sao không biết ta là ai?! Đây là Kinh Châu, không phải địa bàn Giang Đông của ngươi, to gan thật!”
A Đẩu cố ý làm lớn chuyện, vài người chèo thuyền trên bến đò rối rít quay đầu ghé mắt nhìn, âm thanh truyền vào trong khoang thuyền, Tôn Thượng Hương nói: “Chu Thiện không được vô lễ! A Đẩu, con qua đây, khoan hẳn lái thuyền!”
Tiểu binh chính là Chu Thiện dưới trướng Tôn Sách đã qua đời, từng là một tên thủy phỉ chặn đường cướp bóc, vẻ mặt gã có chút do dự, đột nhiên như nghĩ tới chuyện gì, nghiêng người nhường ván cầu, nói: “Chu Thiện không biết, xúc phạm tiểu chủ công, tiểu chủ công thỉnh”
A Đẩu cười lạnh nói: “Khá lắm hãn nô, chỉ sợ ta lên thuyền rồi, ngươi sẽ giong buồm…”
“A Đẩu, ngay cả di nương con cũng không tin sao?”
A Đẩu đành phải thò người vào khoang thuyền.
A Đẩu thấy hai mắt Tôn Thượng Hương đỏ ửng, ngơ ngác ngồi trên ghế, bên cạnh chỉ có một nữ thị Giang Đông hầu hạ, bèn nói: “Ngươi ra ngoài”
Thị tỳ cúi đầu cáo lui, lúc ra ngoài không quên che kín rèm lại, thuyền khẽ nhấp nhô theo từng gợn sóng trên mặt sông, A Đẩu chỉ nói: “Di nương, lần này người đi Giang Đông, sau này đừng quay về đây nữa”
Tôn Thượng Hương đầu tiên là ngẩn người, thanh âm khô khốc, hỏi: “Con nói gì?”
A Đẩu cũng không đề cập tới chuyện Gia Cát Lượng ngao dược, chỉ bảo: “Cha con vứt bỏ hai vị mẫu thân của con tự mình bỏ chạy, loại nam tử này, có đáng để người xa xứ ly hương gả tới đây không? Ở trong cái phủ Kinh Châu này, A Đẩu và di nương lúc nào cũng bị người ta khinh thường, bị người ta lạnh nhạt…Đừng khóc!”
Thấy nước mắt Tôn Thượng Hương thi nhau rơi xuống, có vẻ bị mình nói trúng tâm sự, A Đẩu vội đưa tay lau, nói: “Người về Giang Đông đi, đợi A Đẩu lên làm hoàng đế rồi sẽ đón người trở lại”
Tôn Thượng Hương nức nở nói: “A Đẩu, con trưởng thành rồi, chỉ có con hiểu rõ tâm tư di nương, không uổng di nương thương con”
Phải biết rằng Tôn Thượng Hương viễn giá Kinh Châu, bên cạnh chỉ có vài thị tỳ, võ tướng dưới trướng Lưu Bị, đám mưu sĩ Gia Cát Lượng đối với nàng chẳng chút tôn trọng, chỉ xem nàng như một quân cờ trong cuộc hôn nhân chính trị, hai vị phu nhân Cam Mi bị vùi lấp trong trận địa địch thì còn có Triệu Vân đẫm máu đi cứu, ngược lại Tôn Thượng Hương bị chống đối ra mặt, có thể thấy trước giờ không có ai chân chính xem nàng là chủ mẫu.
A Đẩu nhỏ tuổi ngây ngây ngốc ngốc, gần như bị đối đãi y hệt Tôn Thượng Hương, Tôn Thượng Hương không con, đối với hài đồng này ân cần gấp đôi, hai người quả thật là đồng bệnh tương liên.
A Đẩu giang hai cánh tay ôm Tôn Thượng Hương, nhẹ nhàng hôn hôn lên má nàng, nói: “Di nương, bảo trọng”
Tiếng hót vang của bầy thủy điểu trên sông truyền tới, Tôn Thượng Hương giải bớt bi thương, nói: “Con về đi, hảo hảo phân trần cùng quân sư, di nương cũng là thân bất do kỷ. Quân sư chính sự triền miên, còn dốc lòng ngao dược xem bệnh cho di nương, di nương rất cảm kích, ân tình này, đành để mai sau báo đáp”
A Đẩu ừm một tiếng, nhìn đôi mắt ửng đỏ của Tôn Thượng Hương, Tôn Thượng Hương thở dài, nói: “Thủy điểu bón mồi cho con thơ, lúc về già, phụ mẫu bệnh nặng, vậy mà nhi nữ ngay cả đút một ngụm cháo cũng khó khăn đến thế”
“A Đẩu, một ngày nào đó con có con cháu, đừng để nó khổ giống như ta” Tôn Thượng Hương buồn bã nói: “Di nương ở Giang Đông chờ con, di nương đi rồi, con ngàn vạn lần phải chiếu cố tốt bản thân”
A Đẩu nén nhịn chua xót trong mũi, không nói gì nữa, bởi nếu mở miệng chắc chắn sẽ khóc òa. Hắn vén rèm thuyền, nhưng cước bộ ngừng hẳn, siết chặt quyền, cắn răng hít vào một hơi.
Trong lúc hắn và Tôn Thượng Hương ly biệt, chiếc thuyền kia cư nhiên rời bờ, căng hết buồm, xuôi dòng lao về đất Ngô.
A Đẩu đưa mắt nhìn Kinh Châu đã trở thành một chấm đen nhỏ, tức giận đến nỗi không thốt được nửa lời.