Tư Lĩnh kêu lên đầy đau đớn, hai tay bóp chặt cổ, ánh mặt trợn trắng, từ miệng không ngừng tuôn ra thứ dịch đỏ như máu, có vẻ như không còn biết đau đớn là gì, đến nỗi lão sấn vào nồi nước sôi ùng ục, cứ thế lăn ra giãy giụa, không khác gì heo bị chọc tiết. Về phần Hồng Quán và Phúc Nguyên, vừa ra đến phía sau nhà, còn chưa thấy chỗ để mao xí thì bất chợt nghe tiếng Tư Lĩnh gào lên ở nhà trước, cả hai nhìn nhau giật mình, dư sức biết rằng đã có chuyện không hay xảy ra.
Hồng Quán không nói không rằng, quay người lại, vυ't chạy về hướng nhà trước, Phúc Nguyên cũng theo sát chân, ai ngờ vừa đi chưa qua ba bước, một đám lù lù những thứ như tay người mọc ra tứ phía, quất vào mặt hai người kêu lên chan chát, họ không nhanh tay thủ thế đỡ lấy thì e là mặt mày không còn lành lặn.
Phúc Nguyên lùi lại, ánh đuốc từ con đường phía trước hắt vào làm anh nheo mắt mới thấy được thứ quái dị đã tấn công bất ngờ, chúng là những búp chuối.
Hồng Quán lấy tay chùi mủ chuối dính trên vai, nhanh chân lùi về sau, đề phòng đám quái ấy tấn công bất ngờ, nói: "Thứ gì đây? Anh Nguyên có gặp mấy thứ này bao giờ chưa?"
Phúc Nguyên đứng sát bên, nói: "Chưa hề, mà quái lạ, rõ ràng chẳng thể cảm nhận được âm khí, sao lại có thứ này được?"
"Trời đất bao la, đúng là càng đi nhiều càng học nhiều! Coi chừng!"
Hồng Quán chưa dứt câu thì từ sau lưng vang lên hàng loạt tiếng "xồng xộc", hệt như có cả đàn bò cùng tiến đến một lúc, từ trong màn đêm tối đen, trên đầu hai người chỉ kịp nghe tiếng "vυ't", tức thì hàng chục búp chuối rất to, như đùi người lớn, đập mạnh xuống. Dù là búp chuối, bẹ chuối, mềm thì có mềm nhưng đập với tốc độ như vậy, đỡ không khéo còn gãy xương như chơi, nói gì đến việc lãnh trọn một đòn đó vào đầu!
Hồng Quán rút dao giắt bên hông, lập tức tả xông hữu đột, ngăn chặn rất nhiều đòn tấn công từ thứ yêu quái chuối hay gì đó. Phúc Nguyên không dùng dao, Hồng Quán quay sang thấy anh ta xắn tay áo lên cao quá khuỷu tay, miệng lầm rầm gì đó rồi hô "Khai!", tức thì lòng bàn tay đen lại, mu bàn tay phát ra ánh sáng mờ màu tím, Phúc Nguyên cứ thế dùng tay không mà chặn hết đợt này đến đợt khác. Hồng Quán nhìn mà thán phục, nghĩ trong đầu sau này có dịp phải hỏi Phúc Nguyên thứ ấy là gì mà lợi hại quá, chắc chắn sẽ ráng học.
Phúc Nguyên và Hồng Quán tuy cố ra sức chống trả nhưng vẫn không đẩy lùi được những đợt tấn công tới tấp, Phúc Nguyên quay ra nói với Hồng Quán: "Tôi đếm đến ba, anh nhắm chặt mắt lại, đừng mở ra đến khi tôi kêu nhé!"
Hồng Quán chưa kịp hỏi lại mô tê gì thì Phúc Nguyên đã hét lớn: "Một... Hai ... Ba!"
Hồng Quán biết rằng Phúc Nguyên nói vậy ắt hẳn có lý do, nên dù chưa hiểu nhưng nghe giọng của người đồng hành, hiểu rằng tình huống cấp bách, không thể vòng vo, cũng đành nhắm chặt mắt lại. Phúc Nguyên sau tiếng đếm thứ ba thì hô "Khai!" một tiếng như xé tai, mắt Hồng Quán dù nhắm chặt vẫn thấy một ánh sáng tựa như thái dương, khắp nơi bao phủ hơi ấm của sự sống, thoải mái vô cùng!
Hồng Quán không thể kìm được, chưa đợi Phúc Nguyên ra hiệu, đã hé nhẹ mắt ra xem đòn thế vừa rồi là gì. Từ lòng bàn tay của Phúc Nguyên là một đốm sáng, tròn như trái dừa, gân máu khắp người Phúc Nguyên nổi đầy, nhưng chúng có màu xanh lơ, phát sáng như lân tinh, trông như là đang tiếp thêm năng lượng cho "trái dừa" phát sáng kia.
Ánh sáng soi rọi xung quanh, lúc này hai người mới hiểu được mình đang đối đầu với thứ gì. Họ đang đứng trong một vườn chuối, mà thân chuối có màu như da người chết, dưới mỗi một tán lá chuối là một khuôn mặt người đang há miệng, bắp chuối, bẹ chuối là một cánh tay vươn dài, chúng rất đông, bao quanh hai người họ đến mấy lớp.
Đòn đánh được Phúc Nguyên thi triển dường như có hiệu nghiệm với đám chuối kỳ dị, khiến bọn chúng trong một khoảnh khắc có sơ hở, không áp sát hai người nữa. Họ chỉ đợi có thế, Phúc Nguyên chụp vai Hồng Quán: "Đi! Nhanh!"
Hai người như con sóc nhanh nhẹn luồn qua đám chuối, chạy về nhà trước.
Tư Lĩnh nãy giờ không còn kêu gào gì nữa khiến Hồng Quán vô cùng lo lắng, không biết sư đệ của mình sống chết ra sao, bất giác tăng tốc, vừa qua khỏi đám chuối thì đến nhà trước.
Cảnh tượng đập vào mắt của hai người là chẳng còn ai khác ở đây nữa, trước mặt họ là Tư Lĩnh đang nằm trên đất, miệng mồm đầy dịch đỏ, mắt nhắm nghiền, không biết sống chết ra sao, trong khi đứa cháu gái thầy Tư đang nhe nanh định cắn vào cổ Tư Lĩnh, bên trong nhà, thầy Tư đang cười khúc khích, ngồi chồm hổm trên bàn thờ, bên dưới là hai vợ chồng chủ ghe cùng ba người khách quá giang.
Hồng Quán giận hơ người, kêu lên một tiếng, cứ thế nhảy xổ đến, định bổ một dao vào đứa bé. Nó ngước lên, cười một tràng rồi nhảy phóc một cái đã lên xà nhà, may mà Hồng Quán rút dao về kịp, bằng không có khi lỡ đà mà chém nhầm vào Tư Lĩnh.
Gian nhà trước bây giờ chỉ là một phần nhà tranh xơ xác, mái lá thủng lỗ chỗ, khắp nơi phất phơ những tấm vải trắng, trông chẳng khác gì chốn âm tào địa phủ trong truyền thuyết.
Hồng Quán lui về, nói: "Khốn thật! Chuyện này là sao chứ!"
Cháu gái thầy Tư đang đu mình trên xà nhà, nó nhìn hai người, cười lên khằng khặc, di chuyển qua lại nhanh vô cùng, định làm họ phân tâm thì nhảy bổ xuống. Đột nhiên sau lưng Hồng Quán vang lên tiếng mèo kêu rất lớn, thì ra là Bảo An.
Cái túi vải của Tư Lĩnh rơi ra, Bảo An thấy chủ mình gặp nguy thì lần mò chui khỏi túi, lúc này nó đang đứng bằng hai chân sau, đôi mắt mù thường ngày chỉ là một cặp màu trắng đυ.c, giờ đây đang phát ra ánh sáng xanh lơ, ma quái hơn mèo thường, khiến người ta nhìn vào nếu yếu vía dễ run tay như chơi. Bảo An đi chầm chậm lên trước hai người, nó vẫn kêu lên bằng chất giọng gầm gừ, vừa đe dọa, vừa ma mị, khiến cháu gái thầy Tư không đu người nữa, mà ngồi lên xà nhà, nhìn nó hết sức cẩn thận.
Hồng Quán thấy vậy thì bước lên, định kéo Tư Lĩnh về thì thấy Phúc Nguyên xắn tay áo lên, nói: "Tôi thi triển đòn ban nãy, anh nhớ nhắm mắt nhé!"
Hồng Quán gật đầu, Phúc Nguyên vừa lầm rầm, chưa hô khai, thì con bé cháu thầy Tư cũng rít lên đầy giận dữ, hai bên tưởng như sắp tử chiến thì không gian bỗng tối sầm lại, một giọng nói rất trầm âm vang trong không khí: "Đủ rồi... dừng tay đi Hải Tang Tử, con không phải đối thủ của hai vị này đâu..."
Hồng Quán mặc kệ chuyện gì đang xảy ra, cứ kéo Tư Lĩnh về sát bên mình, Phúc Nguyên cũng đứng bên cạnh, hai người căng mắt ra quan sát xung quanh, không thấy con bé cháu thầy Tư đâu cả.
Đột nhiên từ mặt đất, bàn ghế như mọc ra, hệt như nãy giờ không biến đi đâu mất, căn nhà trở lại như cũ, thậm chí mấy người khách ban nãy đang ngồi ăn cũng còn ngồi ăn, trông tô mì không có gì thay đổi, tất cả chỉ như là ảo ảnh sương khói mà thành. Nơi lúc nãy có một thầy Tư đang ngồi chồm hổm, nơi bức vẽ chữ Thiện, hiện giờ là một cái ghế mây to bề thế, bên trên là một ông lão, rất già, râu dài đến bụng, đầu trọc, mắt nhắm lại. Ông lão chắp tay trước bụng, chân đắp mền, ngả ra ghế, trông như đang ngủ. Cháu gái thầy Tư đứng kế bên khoanh tay như đứng hầu.
Hồng Quán nhìn Phúc Nguyên, cả hai người đều không hiểu đang xảy ra chuyện gì. Ông lão giơ tay ra, tựa như đang kêu hai người lại gần. Ông lão cất tiếng: "Hiểu lầm... Hiểu lầm... Hai vị cứ qua đây!"
Phúc Nguyên đứng dậy, nhìn ông lão, nói: "Hiểu lầm? Hôm nay để coi yêu quái các người làm sao thoát được đây, còn dám dụ dỗ bọn ta?"
Đứa cháu gái nghe Phúc Nguyên nói xong, nó liền há cái miệng lởm chởm răng nhọn, gào lên một tiếng, dường như cũng không chịu thua, quyết đấu sinh tử. Ông lão thở dài, nói: "Hòa khí sinh tài, hòa khí sinh tài, nhị vị bình tĩnh, nghe lão trình bày cái đã..."
Hồng Quán và Phúc Nguyên nhìn nhau, biết rằng hiện tại cứ đề cao cảnh giác, nhưng cũng đã thả tay lỏng ra, bảo ông lão nói những gì ông muốn.
Kể, làng này có từ rất lâu, trước đây là một làng trù phú, người dân sống bằng nghề làm gỗ, con kênh này từng một thời ngược xuôi náo nhiệt, con đường này từng có lúc phố chợ đông đúc. Hơn năm mươi năm trước có một thầy pháp đến bảo rằng làng sắp gặp đại họa, nên dọn đi nơi khác mà sống, vì làng đã tàn phá quá nhiều cây rừng, khiến những oan hồn bất tán không còn nơi trú ngụ, sẽ hè nhau đến quấy phá. Dân làng dĩ nhiên đang yên đang lành, làm gì dễ mà nghe lời ấy, cho rằng đó toàn là xằng bậy, mới đuổi người thầy pháp ấy đi.
Người thầy pháp ấy có dẫn theo một thanh niên là đệ tử, năm ấy đã gần hai lăm, trong làng có một cô gái vừa mới đôi tám, xinh đẹp tuyệt trần, hai người gặp nhau đã vướng phải tiếng sét ái tình. Chàng trai định bụng ở lại làng, người thầy pháp thấy vậy thì thở dài, bảo rằng cô gái đó chính là cái họa mà làng này phải gánh chịu. Chàng trai vô cùng thảng thốt, hỏi ra mới biết, cô gái đó sinh vào bát tự và chiếu tinh cực xấu, khuôn mặt thuộc loại vô cùng hung hiểm, ngàn vạn người trên thế gian chỉ gặp một người, thuật tướng số gọi là Khốc Tàng hoặc Trảm Thôi, nhẹ thì cả họ chết, nặng thì những người có liên quan đều chết cả. Người thầy pháp đi ngang vùng này, thấy một đám mây âm khí dày đặc, cô hồn dã quỷ đã tụ về, sống quanh cô gái đó từ rất lâu, chỉ riêng âm khí đã chất chồng, huống hồ còn có thêm oán khí, nộ khí, hung chồng hung, bất tường lại càng thêm bất tường, phen này cả làng chỉ có nước chết thảm mới hết cái họa đó.
Chàng trai hỏi vậy có cách nào có thể cứu được hay không, người thầy pháp lắc đầu, bảo rằng cô gái thì hết cách, chỉ có cách cứu dân làng thôi. Để ngừa được họa này, trước mắt vẫn là cần phải gϊếŧ cô gái, sau đó đào một giếng nước, làm sao mà đón được mạch nước ngầm chảy theo chiều đông - tây, giếng phải sâu bốn trượng hai xích, rộng sáu xích, phải lót bằng gạch bát quái, miệng giếng xây một mái ngói, lợp ngói âm dương, thùng nước phải là thùng làm bằng gỗ đào, dây buộc gàu dài đúng mười trượng, tất cả đều không được sai khác, đó gọi là Ngọc Liên Huyệt, dùng để áp chế yêu tinh, hoặc những thứ quỷ dữ âm khí mạnh.
(Chú thích : một xích bằng 40cm, một trượng ~4m theo số đo ngày nay)
Tại sao lại phải làm cái giếng cho kỳ công ra như vậy? Bởi vì giếng này không phải để lấy nước, mà là để trấn yểm thứ bên dưới, chính là phần mộ của cô gái. Quan tài cô gái sẽ nằm ở đáy giếng, hướng tây, quan quay về hướng đông. Trong vòng sáu mươi năm không được dùng giếng, hoặc như khi chôn cất xong, đang đêm nghe gàu nước kêu leng keng, tuyệt đối không đến gần, sẽ bị quỷ hồn cô gái bắt lôi xuống dưới. Hình thức dùng Ngọc Liên kiểu như vầy còn gọi là Áp Mộ. Áp Mộ có nhiều loại Quan, như là Ngọc Liên, Hoàng Khuê, Đại Mộc, Xử Trạch,... đều là dùng một vật tự tạo chế áp thứ gì đó của thiên nhiên, sau đó căn cứ phương vị phù hợp mà đặt quan quách.
Người con trai nghe thầy mình nói vậy thì vô cùng đau buồn, làm sao xuống tay với người thương cho được, thầy pháp cho rằng dân làng đã có ý đuổi, họ không thể nán lại được nữa, kẻo lại mang tiếng, thế là hai thầy trò đành lủi thủi ra đi, nhưng vừa ra khỏi làng thì trời mưa rất to, không thể đi được, bèn ở lại trong cái miếu hoang.
Đêm ấy, cô gái hay tin chàng trai bỏ đi, định bụng sẽ bỏ trốn cùng chàng trai, đang đêm mưa gió không kịp khăn gói đồ đạc gì cả, chạy đến miếu hoang tìm. Chàng trai nghe động, mở mắt tỉnh dậy thì thấy cảnh tượng thô bỉ vô cùng, người thầy pháp đang cưỡиɠ ɧϊếp người con gái. Chàng trai tuy lửa giận ngút trời, nhưng khi lao đến cứu người thương liền bị tên thầy pháp đánh văng ra một góc, gãy một bên chân.
Cô gái bị làm nhục, vô cùng phẫn uất, liền cầm một mảnh sành vỡ, nhằm lúc tên thầy pháp không phòng bị, cắt đứt cổ hắn ta, xong rồi cũng quyên sinh.
Dân làng phát hiện ra liền bắt chàng trai nhốt lại, định bụng đi báo quan. Ai ngờ ngày đó với hôm sau, rất nhiều dân làng cùng thấy cô gái nọ đã hóa quỷ, bay khắp làng, thậm chí còn gϊếŧ mấy người tò mò đứng xem. Dân làng hoảng quá, liền nhớ lại chàng trai, mới đến cầu cứu. Chàng trai đã nghe cách khắc chế cô gái, đành cắn răng trấn yểm người yêu lại. Lần ấy, cái chân gãy khi giao chiến đã bị đứt lìa. Giếng làm xong, chàng trai đau lòng bỏ đi.
Một năm sau, chàng trai quay trở về làng với một thân phận khác, thời gian đã làm khuôn mặt anh ta biến đổi nhiều thứ, định bụng đến làng để xem thực hư chuyện âm khí của cô gái năm xưa có bộc phát hay không. Anh vô cùng sửng sốt khi đến nơi, ngôi làng năm xưa chỉ còn lại tan hoang, khắp nơi là người chết không kịp chôn, quan tài nằm la liệt, quạ bay đầy trời, chuột bò khắp đất, mùi hôi thối cách cả dặm đã nghe được.
Chàng trai tìm lại giếng năm xưa, không hiểu bản thân mình đã làm gì sai, đến thì thấy mọi thứ vẫn bình thường, xung quanh giếng lúc này mọc lên một dãy cây còng vô cùng cao lớn, chúng cao chừng hai trượng, tán chụm lại như mái vòm, che kín miệng giếng, khiến không khí bên trong ma quái vô cùng.
Chàng trai định xuống giếng, nhưng vừa vào bên trong thì âm khí đã xộc lên, khiến toàn thân anh ta bủn rủn tay chân, không thể nào tiến vào phá mộ diệt quỷ được. Chàng trai đành dùng đạo thuật, tạo ra một trận bùa, bao quanh miệng giếng, dùng máu mình để vẽ chú, để lại trên đó một lời nguyền, dùng chính sinh lực của mình để kiềm chế ma khí trong cái giếng ấy lại, hàng tháng cứ ngày rằm thì đến trích máu, vẽ lại đạo bùa mới, hễ chàng trai càng mạnh thì ma khí bị ức chế, chàng trai yếu đi thì máu không đủ trấn áp, làm ma khí dâng cao, nghịch chiều như vậy, vẫn kiên trì xuống giếng, có điều bị nhiễm phải thứ âm khí ấy ngày này qua tháng nọ, chẳng thể làm gì khác.
Thế là chàng trai ở làng này thấm thoắt sáu mươi năm. Hàng ngày trông coi mồ mả, những cái mả cũ bờ sông sạt lở, lộ thiên, đều là của người trong làng này cả. Chàng ta lúc còn khỏe thì quy tập mồ mả, tránh bị thú hoang ăn mất, sau này yếu rồi thì không làm được nữa. Người thanh niên đó không biết mình đã già đi từ bao giờ, tóc rụng cả, râu dài bạc trắng, thân thể nhiễm âm khí từ vô số lần xuống giếng bất thành, đã trở nên hư nhược, hiện giờ đã sắp lìa thế.
Người thanh niên đó, chính là ông lão trước mặt Hồng Quán và Phúc Nguyên, ông ta chính là thầy Tư.
Về chuyện tại sao ông ta dụ chiếc ghe của Hồng Quán vào tận đây, mục đích là để nhờ một chuyện. Đứa cháu gái mà ông ta gọi là Hải Tang Tử, kỳ thực là linh hồn của cây bần trăm tuổi ở làng này, Hải Tang nghĩa là cây bần. Dọc đường vào con kênh này, Hải Tang Tử cảm nhận được "mùi" âm khí vướng trên người Hồng Quán và Tư Lĩnh, mới báo lại cho thầy Tư. Thầy Tư mới đưa một vong ra, nhập vào ông chủ ghe, dẫn dụ cả nhóm đến đây. Khi nãy đều là ảo giác mà thầy Tư tạo ra để thử xem bản lĩnh của ba người khách này thế nào, xem có phải là người giúp được hay không. Trong nhóm có Tư Lĩnh do đạo hạnh còn yếu, nên đổ vật ra ngất đi, chứ chẳng phải do trúng độc hay gì cả.
Hồng Quán và Phúc Nguyên không nhận ra âm khí được là vì nơi này chỉ có ông thầy Tư và linh hồn cây bần trăm tuổi, cái vong nhập vào ông chủ ghe không có ác ý, nên cũng chẳng bị phát hiện.
Hồng Quán đưa mắt nhìn xung quanh, đúng là không còn thấy gì ghê sợ nữa, nhưng vẫn hỏi: "Biết đâu hiện giờ lão chẳng đang dùng thuật lên người bọn tôi?"
Thầy Tư cười khà khà, nói: "Cậu nói vậy cũng đúng, nếu như cậu không tin, lão đây sẽ để mọi người đi, nếu lão có ý đồ xấu với mọi người, thì đã chẳng cất công bày ra mấy thứ lộ liễu để thử đạo hạnh hai vị như vậy!"
Phúc Nguyên lấy trong túi ra một thứ bột màu vàng, rất mịn, đưa lên múi hít một hơi, sau đó hắt xì liền mấy cái, nước mắt nước mũi lèm nhèm, rồi anh đưa mắt nhìn quanh, nói với Hồng Quán: "Đúng là không còn ảo giác nữa!"
Phúc Nguyên nói trong giới của anh ta, thứ bột này chống lại ảo giác vô cùng hiệu quả, có điều sau đó thì hắt xì rất nhiều, khi không thực sự cần thì chớ nên dùng. Ban nãy lên bến cũng đã định thử, nhưng do ỷ y quá, thành ra lại dính vào chuyện thử thách của thầy Tư.
Hồng Quán nói: "Vậy thằng đệ tôi..."
Thầy Tư xua tay, đáp: "Lát nữa là tỉnh thôi... không sao không sao!"
Phúc Nguyên hắt xì nãy giờ chưa hết, nói lắp bắp: "Ông nói là...định nhờ...gì đó... mà sao biết bọn tôi mà nhờ?"
Thầy Tư thở dài, nói: "Mùi âm phần dính trên người Hành Gia làm sao mà gột rửa được. Dĩ nhiên Hành Gia lão vẫn biết đến. Có điều ngày ấy Hành Gia chưa được mạnh như hôm nay. Ta chờ đợi Hành Gia có đạo hạnh đã rất lâu, để nhờ một thứ... là chuyên môn của Hành Gia..."
Hồng Quán chau mày: "Bốc bát hương? Không lẽ là bát hương dưới cái giếng đó?"
Thầy Tư trầm ngâm: "Dưới ấy ngoại trừ tình đầu của ta thì có cái gì khác đâu, cho nên không gọi là bốc bát hương được... có điều... Lão muốn đem đứa con của cô ấy lên, đừng để nó hóa thành quỷ mạnh hơn nữa!"
Hồng Quán và Phúc Nguyên trợn mắt: "Con? Cô ta chết rồi vẫn sinh con trong huyệt hay sao?"
Thầy Tư gật đầu: "Đúng vậy, oán khí của nó lớn lắm rồi... Ta thì khí số sắp tận, ngày ta chết đi, trận bùa bị phá vỡ, còn có ai ở đây để ngăn chặn nó nữa, khi ấy tai họa còn lớn đến chừng nào?"
Hồng Quán chau mày, nói: "Lão à, chuyện hành hiệp trượng nghĩa vẫn biết là nên làm, nhưng bọn tôi làm sao đủ tài năng mà bốc được cái bát ấy, thần thông quảng đại như lão vẫn bó tay kia mà?"
Thầy Tư bỗng nghiêm mặt lại, chỉ tay vào Phúc Nguyên: "Thứ cậu vừa xài ban nãy ở vườn chuối là tuyệt kỹ của giới giang hồ ẩn mật lục tỉnh, còn cậu này không biết thứ đó, chứng tỏ là dân Hành Gia chính hiệu. Xưa nay hai giới không liên quan nhau, nay lại đi chung, gấp gáp lên Mỹ Tho, xứ Mỹ Tho Hành Gia nhiều, lão đoán có phải là đang đi tìm thợ chế tác hay không? Bốc bát Cổ Nhân khó quá nên định đi làm thêm đồ nghề..."
Hồng Quán và Phúc Nguyên vô cùng bất ngờ vì bị ông lão nhìn thấu hết tất cả, chưa nói được gì thì thầy Tư nói tiếp: "Hai cậu đang thắc mắc tại sao lão biết nhiều như vậy về Hành Gia đúng không? Ngày xưa, sư phụ ta chính là một trong những người khởi tạo ra cái thứ mà ngày nay hậu bối cậu gọi là Hành Gia Lão Tổ Tông...Bên trong mộ dưới giếng là một pháp bảo của Hành Gia mà bây giờ chẳng ai đủ tài năng làm được cái thứ hai!"
Thầy Tư vừa nói đến đó, từ phía xa, mông lung, vọng về tiếng cười của con nít, và tiếng nước xối, tiếng gàu nước đập vào thành giếng và một âm thanh nỉ non than khóc.
---
(Nếu thích bộ truyện này hãy chia sẻ cho nhiều người đọc nữa nhé ^^ cám ơn các bạn ủng hộ. Lục lâm quyển 2 vẫn còn bán nha