Con Trai Thần Neptune

Chương 39: Percy

VIÊN PHI CÔNG BẢO RẰNG ÔNG ẤY KHÔNG THỂ ĐỢI họ, nhưng điều đó chẳng có vấn đề gì với Percy. Nếu họ sống sót đến ngày mai, cậu hy vọng họ có thể tìm thấy một cách khác để quay về – bất cứ phương tiện gì ngoài máy bay.

Lẽ ra cậu không nên buồn phiền. Cậu đang mắc kẹt ở Alaska, lãnh địa sân nhà của tên khổng lồ, mất hết liên lạc với những người bạn cũ ngay khi các ký ức của cậu đang quay trở lại. Cậu đã nhìn thấy hình ảnh đội quân của Polybotes sắp sửa tấn công Trại Jupiter. Cậu đã thấy cảnh tượng đội quân của Polybotes sắp sửa tấn công Trại Jupiter. Cậu nhận ra rằng tên khổng lồ định dùng cậu như một kiểu tế máu nào đó để thức tỉnh Gaea. Ngoài ra, tối mai là đến Lễ hội Fortuna. Cậu, Frank và Hazel có một nhiệm vụ bất khả thi phải hoàn thành trước đó. May mắn lắm thì họ sẽ giải thoát cho Tử Thần suôn sẻ, người có lẽ sẽ đưa hai người bạn của Percy quay về Địa ngục. Cũng chẳng trông mong gì lắm.

Thế nhưng, Percy lại có cảm giác hăng hái đến kỳ lạ. Giấc mơ về Tyson đã vực dậy tinh thần của cậu. Cậu nhớ Tyson, em trai mình. Họ đã cùng nhau chiến đấu, ăn mừng chiến thắng, chia sẻ những khoảng thời gian tốt đẹp ở Trại Con Lai. Cậu nhớ nhà, và điều đó khiến cậu quyết tâm thành công. Cậu hiện đang chiến đấu vì hai trại – hai gia đình.

Việc nữ thần Juno đánh cắp ký ức và đưa cậu đến Trại Jup

iter đều có lý do cả. Giờ thì cậu đã thông suốt. Cậu vẫn muốn đấm vào khuôn mặt thánh thần của bà ta, nhưng ít nhất cậu đã hiểu được vì sao bà ta lại làm thế. Nếu hai trại chung sức với nhau, họ sẽ có cơ hội chặn đứng các kẻ thù chung của mình. Tách riêng ra, cả hai trại đều sẽ bị diệt vong.

Percy có những lý do khác để cứu Trại Jupiter. Các lý do mà cậu không dám thốt ra – dù sao thì cũng chưa đến lúc. Bỗng nhiên, cậu nhìn thấyương lai của chính mình và Annabeth, tương lai mà trước đây, cậu chưa bao giờ tưởng tượng ra.

Khi họ lên taxi vào khu trung tâm Anchorage, Percy đã kể cho Frank và Hazel nghe về các giấc mơ. Họ có vẻ lo âu nhưng không ngạc nhiên khi cậu kể đến đoạn đội quân của tên khổng lồ đang ở sát trại.

Frank lặng người khi nghe cậu nhắc đến Tyson. “Cậu có một người em trai cùng cha khác mẹ là một Cyclops sao?”

“Đúng thế,” Percy trả lời. “Thế nên cậu ấy có thể là ông cao-cao-cao…”

“Làm ơn đi.” Frank che tai lại. “Đủ rồi.”

“Miễn là cậu ấy đưa được Ella đến trại,” Hazel nói. “Em lo cho cô ấy.”

Percy gật đầu. Cậu vẫn đang nghĩ về những lời tiên tri mà cô yêu quái mình người cánh chim đã thuật lại – về việc con trai thần Neptune bị chết đuối, và về dấu ấn của nữ thần Athena sẽ thiêu hủy cả thành Rome. Cậu không chắc phần đầu tiên nghĩa là gì, nhưng cậu bắt đầu hình dung ra vế thứ hai. Cậu cố gạt thắc mắc đó sang một bên. Cậu phải sống sót sau vụ này cái đã.

Chiếc taxi rẽ vào Đường cao tốc số 1, với Percy mà nói, nó trông giống một đường phố nhỏ, và đưa họ lên phía bắc đến khu trung tâm. Giờ đã là chiều muộn, nhưng mặt trời vẫn còn lơ lửng trên cao.

“Em không thể tin là nơi này đã phát triển nhanh như thế,” Hazel lẩm bẩm.

Người tài xế taxi cười toe toét trong kính chiếu hậu. “Lâu rồi mới trở lại đây sao, thưa cô?”

“Khoảng bảy mươi năm,” Hazel nói.

Người tài xế kéo vách kính ngăn lại và lái xe trong im lặng.

Theo Hazel, phần lớn các tòa nhà đều không còn giống như trước, nhưng cô chỉ ra vài điểm đặc trưng của phong cảnh nơi này: các cánh rừng bạt ngàn bao lấy thành phố, làn nước xám ngắt, lạnh buốt của Cook Inlet uốn quanh co theo rìa bắc đô thị, và dãy Chugach xanh pha xám hiện lên ở phía xa xa, các đỉnh núi phủ đầy tuyết ngay cả trong tháng Sáu.

Từ trước đến giờ Percy chưa từng được hít thở không khí trong lành như thế này. Bản thân thành phố tuy trông tàn tạ vì mưa gió, với những cửa hiệu đóng kín, xe hơi gỉ sét, các khu căn hộ phức hợp xập xệ hai bên đường, nhưng nó vẫn xinh đẹp. Các hồ nước và những vạt rừng khổng lồ cắt xuyên qua giữa lòng thành phố. Cảnh tượng cực quang trên bầu trời là một sự kết hợp tuyệt vời giữa màu ngọc lam và vàng.

Rồi những tên khổng lồ xuất hiện. Hàng tá gã màu xanh da trời, mỗi gã cao chín mét với mái tóc xám nhạt, đang lội qua các cánh rừng, câu cá trong vịnh và sải bước trên những ngọn núi. Dường như người phàm chẳng để ý gì đến họ. Chiếc taxi chạy ngang qua trong phạm vi một vài mét, nơi một người trong số họ đang ngồi rửa chân bên bờ hồ, nhưng lái xe chẳng hoảng sợ chút nào.

“Ừm…” Frank chỉ vào gã màu xanh.

“Những tên Hyperborea,” Percy nói. Cậu ngạc nhiên là mình nhớ được cái tên đó. “Các tên khổng lồ phương bắc. Tớ đã từng đánh nhau với vài tên khi Kronos tấn công Manhattan.”

“Chờ đã,” Frank nói. “Ai đã làm chuyện đó khi nào?”

“Một câu chuyện dài. Nhưng những anh chàng này hình như… tớ không biết nữa, yêu hòa bình.”

“Họ thường là người như thế,” Hazel đồng ý. “Em nhớ ra họ rồi. Họ xuất hiện khắp mọi nơi ở Alaska, như mấy con gấu vậy.”

“Gấu á?” Frank sợ hãi nói.

“Những tên khổng lồ vô hình với con người,” Hazel nói. “Họ chưa bao giờ quấy rầy em, mặc dù có người từng suýt nữa vô tình đạp bẹp em.”

Điều đó nghe có vẻ khiến Percy thấy khó chịu, nhưng chiếc taxi vẫn chạy bon bon. Không một tên khổng lồ nào chú ý đến họ. Một người đứng ngay tại điểm giao nhau trên đường Northern Lights, giạng chân ra hai bên đường cao tốc, và họ lái xe chạy qua giữa hai chân hắn ta. Một gã Hyperborea đang bế một cây cột vật tổ của thổ dân da đỏ quấn trong các lớp lông thú, miệng ngân nga như thể nó là một em bé vậy. Nếu gã đó không cao bằng một tòa nhà, ắt hẳn hắn ta rất là dễ thương.

Chiếc taxi băng qua khu trung tâm, lướt qua một dãy cửa hàng lưu niệm đang quảng cáo lông thú, các tác phẩm nghệ thuật của người da đỏ, và vàng. Percy hy vọng Hazel sẽ không xúc động và làm cho các cửa hàng trang sức nổ tung.

Khi người tài xế rẽ và đi thẳng về hướng bờ biển, Hazel gõ lên lớp kính ngăn. “Đỗ ở đây được rồi. Chúng tôi có thể đi ra không?”

Họ trả tiền cho tài xế và đi vào Phố số 4. So với Vancouver, khu trung tâm thành phố Anchorage bé tẻo teo – giống một khu trường đại học hơn là một thành phố, nhưng Hazel trông hết sức ngạc nhiên.

“Nó lớn thật đấy,” cô ấy nói. “Chỗ kia… chỗ kia từng là Khách sạn Gitchell. Mẹ em và em đã ở đó trong tuần đầu tiên bọn em đến Alaska. Và họ cũng đã di dời Tòa Thị Chính. Nó từng nằm ở đó.”

Cô ấy sửng sốt dẫn họ đi thêm vài khu nhà nữa. Họ thật sự không có kế hoạch nào ngoài việc tìm cách nhanh nhất để đến được Sông băng Hubbard, nhưng Percy ngửi thấy mùi thức ăn gần đó – xúc xích chăng? Cậu nhận ra mình đã không ăn gì kể từ buổi sáng ở nhà bà ngoại Trương.

“Có thứ bỏ bụng rồi,” cậu nói. “Đi thôi.”

Họ tìm thấy một quán café ngay cạnh bãi biển. Đâu đâu cũng toàn người là người, nhưng họ giành được một bàn bên cửa sổ và đọc kỹ thực đơn.

Frank thích thú reo lên. “Bữa sáng hai-mươi-tư-tiếng!”

“Giờ hình như là thời gian ăn tối,” Percy nói, mặc dù cậu không thể khẳng định trăm phần trăm qua việc nhìn ra bên ngoài. Mặt trời vẫn còn chót vót trên cao nên chắc là giữa trưa.

“Tớ thích bữa sáng,” Frank nói. “Tớ sẽ ăn sáng, ăn sáng và ăn sáng nếu tớ có thể. Dù rằng, ừm, tớ chắc là thức ăn ở đây không ngon bằng bữa sáng Hazel đã làm.”

Hazel huých khuỷu tay vào cậu ấy, nhưng miệng lại mỉm cười tinh nghịch.

Nhìn họ như thế khiến Percy cảm thấy hạnh phúc. Hai người đó rõ ràng là cần kết thân với nhau. Nhưng cảnh tượng này cũng làm cậu buồn. Cậu nghĩ đến Annabeth và tự hỏi liệu mình có sống được lâu tới khi gặp lại c

Suy nghĩ tích cực lên nào, cậu tự nhủ.

“Bọn cậu biết đấy,” cậu nói, “bữa sáng nghe rất tuyệt.”

Bọn họ đều gọi các đĩa trứng, bánh kếp và xúc xích tuần lộc đầy tú hụ, dù Frank trông hơi lo lắng về món tuần lộc. “Hai người có nghĩ là sẽ ổn nếu chúng ta ăn thịt Rudolph không?”

“Anh bạn này,” Percy nói, “tớ có thể ăn luôn cả Prancer lẫn Blitzen ấy chứ. Tớ đói quá.”

Đồ ăn ngon tuyệt cú mèo. Percy chưa bao giờ thấy ai ăn nhanh như Frank. Chú tuần lộc mũi đỏ chẳng có bất cứ một cơ may nào.

Giữa những miếng cắn món bánh kếp nhân việt quất, Hazel vẽ một đường cong và một chữ X nguệch ngoạc lên giấy ăn của mình. “Vậy đây là những gì em đang nghĩ. Chúng ta ở đây.” Cô ấy gõ vào chữ X. “Anchorage.”

“Nó trông giống mặt một con mòng biển,” Percy nói. “Và chúng ta là những con mắt.”

Hazel trừng mắt nhìn cậu. “Nó là một cái bản đồ, anh Percy. Anchorage nằm ở đầu mυ'ŧ một phần nhỏ của đại dương này, Cook Inlet. Có một bán đảo lớn bên dưới chúng ta, và thị trấn cố hương của em, Seward, nằm cuối bán đảo, ở đây.” Cô vẽ một chữ X khác ở cuối cuống họng con mòng biển. “Đó là thị trấn gần Sông băng Hubbard nhất. Chúng ta có thể đi vòng bằng đường biển, em đoán thế, nhưng như thế thì đi mãi cũng chả đến được. Chúng ta không có nhiều thời gian như vậy.”

Frank ăn gấp miếng Rudolph cuối cùng của cậu ấy. “Nhưng đất liền rất nguy hiểm,” cậu nói. “Đất liền đồng nghĩa với Gaea.”

Hazel gật đầu. “Dù thế nhưng em thấy chúng ta không có nhiều lựa chọn. Chúng ta có thể yêu cầu phi công đưa chúng ta xuống đó, nhưng em không biết… liệu máy bay của ông ấy có quá lớn so với sân bay của Seward bé nhỏ không. Và nếu chúng ta thuê một chiếc máy bay khác…”

“Không thêm chiếc máy bay nào nữa,” Percy nói. “Làm ơn đi.”

Hazel giơ một tay lên làm động tác xoa dịu. “Ổn thôi. Có một chuyến tàu khởi hành từ đây đến Seward. Chúng ta có thể bắt một chuyến vào tối nay. Chỉ mất vài tiếng thôi.”

Cô ấy vẽ một đường chấm chấm giữa hai chữ X.

“Em vừa mới cắt đứt đầu con mòng biển,” Percy lưu ý.

Hazel thở dài. “Đó là đường sắt. Nhìn xem, từ Seward, Sông băng Hubbard nằm ở đâu đó phía dưới này.” Cô ấy gõ vào góc thấp hơn bên phải khăn ăn. “Đó là hang ổ của Alcyoneus.”

“Nhưng em không chắc là bao xa sao?” Frank hỏi.

Hazel cau mày và lắc đầu. “Em khá chắc một điều chúng ta chỉ có thể đến đấy bằng thuyền hay máy bay.”

“Thuyền,” Percy nói ngay lập tức.

“Tốt,” Hazel đáp. “Nó sẽ không cách Seward quá xa đâu. Nếu chúng ta an toàn đến được Seward.”

Percy nhìn ra ngoài cửa sổ. Quá nhiều việc để làm, và chỉ còn lại hai mươi tư tiếng đồng hồ. Thời điểm này ngày mai, Lễ hội Fortuna sẽ bắt đầu. Trừ khi họ giải cứu được Tử Thần và quay trở lại trại, nếu không đội quân của tên khổng lồ sẽ tràn vào thung lũng. Trại viên La Mã sẽ là món chính cho bữa tối của lũ quái vật.

Bên kia đường, bãi cát đen phủ đầy sương giá kéo dài xuống tận mép nước, hiện đang phẳng phiu như thép. Đại dương ở đây có cảm giác khác hẳn – vẫn mạnh mẽ nhưng giá lạnh, từ tốn và nguyên sơ. Không một vị thần nào kiểm soát dòng nước đó, chí ít thì không có vị thần nào mà Percy quen biết. Thần Neptune sẽ không có cách nào bảo hộ cậu. Percy tự hỏi liệu ngay cả bản thân cậu có thể điều khiển dòng nước ở đây hay hít thở dưới nước không.

Một gã khổng lồ Hyperborea ì ạch di chuyển bên kia đường. Không ai trong quán café chú ý đến. Tên khổng lồ bước vào vịnh, làm vỡ băng bằng đôi xăng-đan rồi thọc tay mình vào trong làn nước. Hắn ta cầm lên một con cá voi sát thủ. Hình như đó không phải là thứ hắn ta muốn, vì hắn ta ném trả con cá voi lại và tiếp tục lội nước.

“Món điểm tâm thật ngon,” Frank nói. “Mọi người đã sẵn sàng cho chuyến đi bằng tàu chưa

Nhà ga không xa lắm. Họ đến vừa kịp lúc để mua vé cho chuyến tàu cuối cùng về phía nam. Khi các bạn mình lên tàu, Percy nói, “Hẹn chút nữa gặp lại các cậu nhé,” và chạy vào lại bên trong nhà ga.

Cậu đổi tiền lẻ tại một cửa hàng quà tặng và đứng trước điện thoại công cộng.

Cậu chưa bao giờ sử dụng điện thoại công cộng. Chúng là những món đồ cổ kỳ lạ với cậu, như đĩa hát của mẹ cậu hay những cái băng cassette Frank Sinatra của bác Chiron. Cậu không chắc nó sẽ ngốn mất bao nhiêu đồng xu, hay liệu cậu có thể thực hiện cuộc gọi không, cứ giả như cậu nhớ được chính xác số điện thoại đi.

Sally Jackson, cậu nghĩ.

Đó là tên mẹ cậu. Và cậu có một người bố dượng… Paul.

Họ nghĩ gì về chuyện đã xảy ra với Percy? Có lẽ họ đã tổ chức một lễ truy điệu. Đúng như cậu tính toán, cậu đã mất đi cuộc sống của mình được bảy tháng. Dĩ nhiên, phần lớn việc đó xảy ra trong suốt năm học qua, thế nhưng… chuyện đó chẳng làm cậu bình tĩnh chút nào.

Cậu nhấc ống nghe lên và nhấn vào một số ở New York – căn hộ của mẹ cậu.

Hộp thư thoại. Percy nên đoán ra điều đó. Giờ ở New York có lẽ đang là nửa đêm. Họ sẽ không nhận ra số này. Giọng chú Paul trong phần ghi âm làm tâm trí Percy choáng váng, cậu hầu như không thể thốt nên lời.

“Mẹ,” cậu nói. “Ừm, con còn sống. Nữ thần Hera làm con ngủ mê một khoảng thời gian, và rồi bà ta đã lấy mất ký ức của con, và…” Giọng cậu ngập ngừng. Làm thế nào cậu có thể giải thích tất cả chuyện này theo cách hợp lý nhất đây? “Dù sao thì con vẫn ổn. Con xin lỗi. Con đang trên đường thực hiện nhiệm vụ…” Cậu cau mày. Cậu không nên nói chuyện đó. Mẹ cậu biết hết các nhiệm vụ, và hiện tại bà sẽ lo lắng lắm. “Con sẽ sớm về nhà. Con hứa. Yêu mẹ.”

Cậu đặt ống nghe xuống. Cậu nhìn điện thoại không chớp mắt, hy vọng mẹ cậu sẽ gọi lại. Tiếng còi tàu vang lên. Nhân viên hỏa xa hét lớn, “Mọi người lên tàu nào.”

Percy chạy đi. Cậu đến vừa kịp lúc họ đang kéo các bậc thang lên, sau đó leo lên tầng hai của toa xe và vào ghế ngồi của mình.

Hazel cau mày. “Anh ổn chứ?”

“Ừm,” cậu rên rĩ. “Anh chỉ… gọi một cú điện thoại mà thôi.”

Cô ấy và Frank dường như hiểu ra. Họ không hỏi gì thêm.

Chẳng bao lâu sau ba người bọn họ đi về phía nam dọc theo đường bờ biển, ngắm nhìn phong cảnh đang dần lùi lại phía sau. Percy cố nghĩ ngợi về nhiệm vụ lần này, nhưng với một đứa trẻ mắc chứng ADHD như cậu, tàu lửa không phải là nơi dễ nhất để tập trung suy nghĩ.

Những việc vui vẻ hơn đang diễn ra ở bên ngoài. Những con đại bàng đầu trọc sải cánh trên không trung. Con tàu chạy xình xịch qua những cây cầu và dọc theo các vách đá, nơi có những thác nước lạnh buốt cao hàng trăm mét ào ào đổ xuống. Họ băng qua những cánh rừng bị tuyết vùi lấp, những khẩu pháo cao xạ cỡ lớn (dùng để làm nổ những đợt tuyết lở nhỏ và ngăn ngừa những đợt tuyết lở lớn hơn, Hazel giải thích), những hồ nước trong veo in bóng núi non tựa gương soi, vì vậy vạn vật trông như đang lộn ngược lại.

Lũ gấu nâu ì ạch lê mình qua các đồng cỏ. Những tên khổng lồ Hyperborea tiếp tục xuất hiện ở những nơi kỳ lạ nhất. Một gã nằm ườn ra trong một cái hồ như thể nó là một cái bồn nước nóng vậy. Gã khác đang dùng một cây thông làm tăm xỉa răng. Tên thứ ba ngồi trên ụ tuyết chơi với hai con nai sừng tấm sống nhăn như thể chúng là những mô hình nhân vật. Con tàu đầy nhóc khách du lịch ồ à liên tục và bấm máy lia lịa, nhưng Percy thấy tiếc là họ đã không nhìn thấy các Hyperborea. Họ đang bỏ qua những bức ảnh cực đẹp.

Trong lúc đó, Frank nhìn kỹ bản đồ Alaska mà cậu ấy tìm thấy trong túi sau lưng ghế. Cậu ấy xác định vị trí Sông băng Hubbard, trông xa đến nản lòng nếu tính từ Seward. Cậu ấy tiếp tục di ngón tay dọc theo bờ biển, cau mày tập trung.

“Cậu đang nghĩ gì thế?” Percy hỏi.

“Chỉ… là các khả năng thôi,” Frank nói.

Percy không hiểu điều đó nghĩa là gì, nhưng cậu không hỏi thêm nữa.

Sau chừng một giờ đầu thư giãn. Họ mua sô-cô-la nóng từ xe bán đồ ăn. Ghế ngồi ấm áp và thoải mái, và vì thế cậu nghĩ đến việc chợp mắt một lát.

Rồi một cái bóng lướt qua trên toa tàu. Các du khách xì xà xì xầm thích thú và hứng khởi chụp ảnh.

“Đại bàng!” một người hét lên.

“Đại bàng ư?” một người khác hỏi lại.

“Đại bàng khổng lồ!” người thứ ba nói.

“Đó không phải là đại bàng,” Frank nói.

Percy nhìn lên, đúng lúc thấy sinh vật đó bay qua lần thứ hai. Nó dứt khoát là lớn hơn nhiều so với một con đại bàng, cơ thể đen bóng có kích thước của một con chó tha mồi Labrador. Sải cánh của nó trải rộng ít nhất là ba mét.

“Thêm một con nữa!” Frank chỉ. “Chú ý kìa. Ba, bốn. Được rồi, chúng ta đang gặp rắc rối.”

Các sinh vật nọ lượn vòng bên trên đoàn tàu như những con chim kền kền, mang lại niềm vui cho các khách du lịch. Percy thì không thế. Những con quái vật có mắt đỏ rực, mỏ sắc nhọn và móng vuốt ghê rợn.

Percy sờ vào cây bút trong túi quần mình. “Mấy con đó trông quen quen…”

“Ở Seattle,” Hazel nói. “Các chiến binh Amazon có một con nhốt trong l*иg. Chúng…”

Rồi vài chuyện xảy ra cùng một lúc. Thắng dự phòng rít lên ken két, hất họ về phía trước. Các du khách gào thét và ngã nháo nhào ra khắp các lối đi. Đám quái vật sà xuống, xé toạc nóc tàu bằng kính của toa xe, và toàn bộ con tàu lật khỏi đường ray.