*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Anh đi thẳng vào vấn đề: “Tôi đã nghe thấy người ta bàn tán về chuyện của cậu.”
Hồ Đào nở nụ cười đầy châm biếm.
Vậy cậu tới đây làm gì? An ủi tôi? Thương hại tôi? Hay cũng cười nhạo tôi? Cô suy nghĩ đầy tiêu cực.
Lâm Hướng Tự lại nói: “Tiếc quá, thằng đấy chơi bóng rổ rất cừ, tôi đấu solo với nó, mới được mười phút đã thua thảm hại.”
Chú thích: “nó” ở đây ám chỉ cậu bạn đã chế giễu Hồ Đào.
Hồ Đào ngẩn người, không ngờ rằng anh lại nói như vậy.
“Tuần nào tôi cũng chơi bóng rổ với nó, kỹ thuật của nó thật sự rất tốt, cho dù thể lực kém hơn tôi một chút nhưng sức bật không đùa được đâu. À, không chỉ thế, nó còn ném bóng rất chuẩn, ném mười vào chín. Một cao thủ ngang tài ngang sức với tôi như vậy, quả thực là tri âm khó tìm, sau này không thể chơi bóng rổ cùng nó nữa, cũng cảm thấy hơi đáng tiếc.”
Giọng nói của anh nghe có vẻ vô cùng nuối tiếc.
Hồ Đào không nhịn được mà bật cười.
“Sao lại cười?” Lâm Hướng Tự liếc mắt nhìn cô.
“Không có gì, chỉ là tôi cảm thấy sớm muộn gì cậu cũng thắng được cậu ta thôi,” Cô cười nói, “Cuộc đời còn dài lắm.”
“Quá chuẩn, đấy là chuyện đương nhiên rồi, cậu không biết tôi là ai à?” Lâm Hương Tự bắt chước dáng vẻ Hanamichi Sakura trong truyện tranh “Slam Dunk”, giơ tay thành hình chữ V, cười tươi để lộ ra hàm răng trắng: “Tôi là thiên tài đấy!”Hanamichi Sakura
Giây tiếp theo, anh lại sa sầm nét mặt xuống, bắt chước biểu cảm của Rukawa Kaede: “Đồ—— ngốc ——”Rukawa Kaede
“Cậu vẫn là Châu Tinh Trì!”
“Được rồi được rồi!”
“…”
Cuối ngày, mặt trời ngả về đằng Tây, từng cơn gió dịu dàng thổi qua, cuốn theo tiếng nói cười của của hai thiếu niên đến một nơi rất xa nào đó.
“Tôi dẫn cậu đến chỗ này.” Lâm Hướng Tự nói.
“Đi đâu?”
“Đi đến một——” Lâm Hướng Tự dừng lại một chút, nhíu mày: “Cậu lắm chuyện thế nhỉ.”
“Sao cậu trở mặt còn nhanh hơn lật sách thế?”
Lâm Hướng Tự không buồn tranh luận với cô, chỉ lười biếng ngồi trên xe đạp, hỏi: “Thế có đi không?”
“Đi đi đi!”
Trên đường đi, Hồ Đào vừa ngồi sau xe của Lâm Hướng Tự, vừa suy đoán rất nhiều địa điểm, không ngờ cuối cùng anh lại đưa cô đến thủy cung.
Đây là lần đầu tiên cô đến thủy cung, ngoại trừ lần này thì những tụ điểm ăn chơi như rạp chiếu phim hay công viên trò chơi cô cũng chưa từng đi tới.
Thủy cung không quá lớn, cũng không quá đông người. Nhân viên soát vé mải mê làm việc của mình mà kiểm vé cho hai người họ một cách qua loa.
Lâm Hướng Tự có vẻ rất quen thuộc với nơi này, chắc chắn là không phải lần đầu đến đây. Đầu tiên, anh dẫn cô đi vào khu nuôi sứa. Vừa bước vào, cô liền cảm thấy nhiệt độ giảm đi đột ngột, ánh sáng cũng tối đi, mô phỏng cảnh tượng trong lòng biển rộng, thỉnh thoảng còn có thể mơ hồ nghe thấy tiếng sủi bọt để thở của những sinh vậy sống dưới đáy biển sâu. Hai bể nước ở hai bên lối đi được chia thành nhiều ô vuông trong suốt, trong mỗi ô nuôi một loài sứa khác nhau, ánh sáng màu xanh đậm nghiêng mình chiếu xuống làn nước trong ngần.
Thật ra ngoài việc dựa vào hình dạng bên ngoài, Hồ Đào không cách nào phân biệt được từng loại sứa, thế nhưng cô vẫn giả vờ đọc phần giới thiệu.
Lâm Hướng Đảo chậm rãi đi cạnh cô, thỉnh thoảng dừng chân giải thích cho cô một vài điều cơ bản. Không biết vì sao mà khi đến nơi này, Hồ Đào cảm thấy Lâm Hướng Tự dường như biến thành một con người hoàn toàn khác, trở nên hăng hái và tràn đầy năng lượng.
Giống như cả người đều tỏa ra ánh hào quang, Hồ Đào nghĩ.
“Sứa là một loại động vật bậc thấp không xương, ăn thịt. Theo thống kê, sứa xuất hiện trên trái đất còn sớm hơn cả khủng long, từ hơn sáu trăm năm mươi triệu năm về trước. Có khoảng hai trăm năm mươi loài sứa phân bố ở khắp các vùng biển trên thế giới. Sứa rất đẹp nhưng có độc và hung dữ.”
Giọng nói của cậu thiếu niên vốn lạnh nhạt, nhưng khi rơi vào khung cảnh màu xanh nước biển đẹp mộng mơ bỗng trở nên rất đỗi dịu dàng.
Hồ Đào nhìn cậu thiếu niên đang đi cạnh cô, anh mặc bộ đồng phục rộng thùng thình, khóa áo cũng không thèm kéo, trên người tỏa ra hương thơm nhàn nhạt của cỏ cây. Anh của lúc này, so với người đeo chiếc dây chuyền vàng chướng mắt, ghé mặt lên bàn học ngủ đến chảy nước miếng giống như hai người hoàn toàn khác nhau.
Cô bỗng thấy luyến tiếc giây phút này, chỉ mong thời gian sẽ dừng lại mãi.
Xoay người một cái, Hồ Đào bỗng phát hiện ra khu nuôi sứa còn có thêm một gian khác.
Bể nước này rất lớn, chiều rộng chiếm hết cả bức tường, ánh đèn ở nơi đây dường như sáng hơn một chút, đủ các loại sứa tự do du đãng trong làn nước xanh thăm thẳm.
Hồ Đào ghé sát mặt vào tấm kính, nhìn những con sứa đang bơi, không nhịn được mà cảm thán: “Thật muốn được làm một con sứa.”
“Sao lại thế?”
“Vì sẽ không phải buồn phiền,” Hồ Đào nhẹ giọng nói, “Không phải lo lắng đến bất cứ điều gì cả, chỉ cần sống, đơn thuần là sống như vậy mà thôi.”
“Nếu vậy cậu sẽ thật sự cảm thấy vui sướиɠ sao? Mà ai bảo sứa không có nỗi buồn chứ?”
Hồ Đào ngẩng đầu lên nhìn Lâm Hướng Tự.
“Cậu rất thích nơi này đúng không?” Hồ Đào hỏi.
“Không,” Lâm Hướng Tự không hề che giấu mà bày ra vẻ mặt ghét bỏ: “Tôi cực kỳ ghét nơi này.”
“Vì sao chứ?”
“Vì sao à? Sự tồn tại của thủy cung khiến tôi căm ghét.” Lâm Hướng Tự nói, “Tôi ghét thủy cung, ghét sở thú, ghét cả những cái l*иg chim. Con người vì muốn mua vui cho mình mà trói buộc những loài sinh vật khác, khiến báo đốm quên mất rừng sâu, khiến cá voi quên đi biển cả… Trên đời này luôn có một số sinh mệnh đáng thương không được sống ở nơi bọn chúng vốn thuộc về.”
“Hồ Đào, thật ra những chuyện đang trói buộc cậu, đang khiến cậu đau lòng, tất thảy đều không quan trọng.” Lâm Hướng Tự cúi đầu nói với cô.
“Quá khứ của cậu, cha mẹ của cậu, gia đình của cậu, những lời đồn đại và chửi bới cậu, tất thảy đều không quan trọng.” Anh tháo khăn quàng trên cổ mình xuống, bước một bước đến gần Hồ Đào, quấn chiếc khăn đó lên cổ cô. Chiếc khăn rất to, che khuất cả miệng và mũi Hồ Đào, Lâm Hướng Tự giơ tay đè lên khăn, chỉ để lộ ra đôi mắt to đen nhánh, anh dừng một chút rồi lại nói tiếp: “Điều quan trọng, là chúng ta sẽ sống thế nào, sẽ làm sao để đi hết cả cuộc đời dài rộng.”
Hồ Đào cảm thấy mắt mình ươn ướt, cố gắng chớp đi chớp lại nhiều lần.
“Quên hết bọn chúng đi, quên hết những điều làm cậu không thoải mái.”
Anh rút tay lại, xỏ vào túi quần, mỉm cười nhìn cô.
Lâm Hướng Tự không ngờ được rằng, một câu nói này của anh lại trở thành lời tiên tri cho mười mấy năm sau đó.
Hồ Đào chân thành nói: “Cảm ơn cậu.”
“Có gì đâu, chúng ta là bạn bè mà.” Lâm Hướng Tự quay đầu lại, chỉ cho Hồ Đào một con sứa đang chậm rãi phồng mình lên.
Trong khoảnh khắc đó, Hồ Đào dường như đã thông suốt mọi chuyện, buột miệng nói: “Cậu nói đúng, báo đốm quên đi rừng rậm, cá voi quên mất đại dương, đều là những điều bi ai biết mấy. Và cả những con sứa đó, thật ra cũng chẳng sung sướиɠ gì.”
“Có lẽ là như vậy, nói không chừng bọn chúng có thể ngửi thấy mùi hương của biển cả từ một nơi nào đó rất rất xa. Thế nhưng…” Cậu thiếu niên ngẩn ngơ nhìn những con sứa trong suốt tuyệt đẹp, bình tĩnh mà tàn nhẫn nói: “Suốt cả cuộc đời, bọn chúng đều không thể trở về với biển xanh được nữa.”
Lâm Hướng Tự ngẩng đầu lên, nói: “Mấy năm trước, tôi từng được ba đưa đến một thủy cung ở Mỹ. Nơi đó rất lớn, có rất nhiều sinh vật biển, tôi và ba đi hết cả một ngày, đến cuối ngày khi chuẩn bị phải rời đi mới đến một nơi cuối cùng, là khu nuôi cá mập.”
“Ở khu đó, tôi nhìn thấy một biển cảnh báo điện tử màu đỏ, trên biển viết: “Tính đến giờ phút này, đã có bốn trăm bốn mươi nghìn con cá mập bị bắt gϊếŧ trong ngày hôm nay.” Lâm Hướng Tự nhìn thẳng vào đôi mắt Hồ Đào, lặp lại thêm lần nữa, “Nội trong một ngày, bốn trăm bốn mươi nghìn con, nhưng vẫn chưa dừng lại ở đó.”
“Khi ấy cả người tôi run rẩy sợ hãi, đứng giữa thủy cung không ngừng gào khóc.” Lâm Hướng Tự ngượng ngùng cười, dùng ngón tay xoa xoa mũi: “Có lẽ đó là chuyện đáng xấu hổ nhất trong cuộc đời tôi.”
“Không.” Hồ Đào lắc đầu: “Không hề.”
“Khi đó, tôi đã thề với ba rằng sau này sẽ trở thành một nhà sinh vật học, tôi phải bảo vệ bọn chúng. Chỉ cần còn sống, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể, cho dù bé nhỏ không thấm vào đâu, cho dù không thu lại được gì, tôi vẫn cam tâm tình nguyện vì thế mà dâng hiến cả sinh mệnh của chính bản thân mình.”
Còn có một câu nói nữa, Lâm Hướng Tự không nói ra, nhưng Hồ Đào cảm thấy trái tim cô nghe được.
Nghe thấy anh gằn từng chữ một, nói ra lời thề đầy nhiệt huyết, lấp lánh hy vọng và khát khao: “Đó là mơ ước của tôi.”
Một lát sau, Lâm Hướng Tự mới nói tiếp: “Tôi cũng chẳng biết phải làm sao để sống một đời mà không thấy hổ thẹn với lương tâm của chính mình, nhưng tôi cho rằng, nỗ lực hết sức để thực hiện ước mơ của bản thân thì sẽ chẳng bao giờ là sai cả. Hồ Đào, cậu có mơ ước gì không?”
Hồ Đào suy nghĩ một hồi, rồi nhẹ giọng nói: “Tôi muốn học hành thật tốt, không khiến mẹ tôi phải phiền lòng. Tôi hy vọng tất cả mọi người đều được khỏe mạnh và bình an.”
Lâm Hướng Tự cười rộ lên, vỗ nhẹ vào đầu Hồ Đào: “Đấy không phải là ước mơ, mà là tâm nguyện.”
“Thế ước mơ là gì?”
“Tôi cũng không biết nữa.” Anh lại khôi phục dáng vẻ lười nhác, khoan thai, giống như dù trời sập xuống cũng chẳng ảnh hưởng gì đến anh. Anh nhìn xuyên qua tấm kính màu lam trong suốt, như thấy được cả đại dương, ánh mắt dịu dàng mà sâu thẳm, nói rằng: “Nhưng tôi từng đọc được trong sách một câu thế này: cái gọi là trưởng thành, suy cho cùng cũng chỉ là trải qua nhiều lần từ biệt, cái gọi là ước mơ, chính là thứ duy nhất còn sót lại khi chúng ta chẳng còn gì.”
Thủy cung vô cùng yên tĩnh, những con sứa thản nhiên bơi lội sau tấm kính. Dù chỉ cách một bức tường, nhưng hai bên là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Ánh đèn màu lam nhạt rơi xuống gương mặt người thiếu niên, anh giống như một vị thần bước ra từ đại dương trong thời viễn cổ, trách trời thương dân, hết mực quyến luyến và yêu thương thế gian này.
Anh giơ tay về phía Hồ Đào.
Đó là tia sáng duy nhất trong cuộc đời cô độc và u ám của cô.
“Hồ Đào, rất vui được gặp cậu.”
Năm 1999, thảm họa mà Notradamus dự đoán không hề xảy ra, trái đất vẫn cứ xoay vòng, mỗi ngày đều có người chết đi, có người ra đời.
Năm 2000, Châu Kiệt Luân ra mắt công chúng, phát hành album cùng tên, không ai ngờ được rằng chàng trai từng không đọc rõ chữ đó sẽ có thể trở thành thanh xuân của cả một thế hệ.
Năm 2001, vụ khủng bố 11/9 đã gây chấn động trên toàn thế giới, tòa tháp đôi vĩ đại của New York hoàn toàn sụp đổ, không rõ số người tử vong.
Năm 2002, dịch SARS càn quét cả đất nước, ai cũng cảm thấy bất an, virus điên cuồng lây lan mạnh mẽ.
Năm 2003, Trương Quốc Vinh nhảy lầu tự sát, để lại vô vàn lời bàn tán giữa thế gian về một bậc tài hoa có số phận đau thương và bi đát.
Mùa hè của những năm đó thật dài, tiếng ve kêu triền miên không dứt, từng nhóm thiếu niên mặc chiếc áo đồng phục màu trắng, ống tay áo được xắn lên gọn gàng, có thể ngửi thấy hương bột giặt nhàn nhạt.
Và tương lai vẫn còn rất xa.