(Giải thích tựa chương:
Khói lửa nổi lên bạn cũ gặp lại…)
Đêm đó Lã Bố hộc máu xong bất tỉnh nhân sự, đến hôm sau mới tỉnh lại. Tinh thần hay thể lực đều rất yếu, câu đầu tiên sau khi tỉnh lại là hỏi chuyện ngày đó ở Trường An.
Lúc đó Lã Bố ngã ngựa té xỉu, quân Tịnh Châu không ngừng tháo chạy, trở về thủ thành. Cao Thuận phái Trương Liêu nhanh chóng đi đón Kỳ Lân, đồng thời tự mình xông pha cứu Lã Bố ra, không ngờ Trương Liêu vừa đi không lâu, cửa Tây truyền đến tin tức quân Tào đã vào thành.
Trần Cung quyết định thật nhanh, không để ai nghi ngờ, hạ lệnh toàn quân rút lui theo cửa Đông ra khỏi thành Trường An, đợi Kỳ Lân hội hợp sẽ tiếp tục thương lượng đối sách.
Nhưng bởi vì nhiều chuyện xảy ra cùng lúc, nên bắt đầu có sai lệch, Trương Liêu không biết gì về lệnh rút quân, cũng không tận mắt nhìn thấy Lã Bố ngã ngựa, Kỳ Lân thì cho rằng mọi chuyện đều do Lã Bố gây nên, chỉ than thở mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, cuối cùng bỏ lỡ một cơ hội vô cùng tốt.
Lã Bố vừa tỉnh, nghe xong suýt ngất lần nữa, ngồi trên giương mà trước mắt tối đen, suy nghĩ rồi cũng chỉ nghĩ mà không ra được cái gì. Người bị thương nặng, muốn nổi giận cũng không có sức mà giận. Đành phải truyền Trần Cung lần nữa vào nghị sự.
Trần Cung kể rõ đầu đuôi suy đoán của Kỳ Lân, cũng hỏi Trương Liêu những chuyện đã xảy ra, khi nói tới Tào Chương thì mọi chuyện ăn khớp với nhau.
“Tào Tháo dùng kế ly gián.” Lã Bố mệt mỏi nói: “Ta con mẹ nó…”
“Đúng vậy.” Trần Cung nói thẳng: “Phụng Tiên ngươi quá ngu xuẩn.”
“Trần Công Đài!” Lã Bố gầm lên, chụp cái ly đồng trên bàn nén Trần Cung: “Ta không muốn gϊếŧ ngươi không phải vì sợ ngươi!” Tuy Lã Bố đang bệnh, ném không trúng Trần Cung nhưng lực vẫn đủ lớn, làm cái ly bay trúng thân binh ngoài cửa lều, làm hắn u đầu chảy máu.
Trần Cung cười lạnh: “Ngu xuẩn như heo chó, gϊếŧ ta thì thế nào?”
Lã Bố điên tiết, đập bàn quát: “Điểm binh! Hầu gia lập tức gϊếŧ về Trường An!”
“Hầu gia, chàng bình tĩnh lại đi!” Rốt cuộc Điêu Thiền lên tiếng: “Bây giờ Viên Thiệu đã vững chân ở Trường An, với tình hình lúc ấy, nếu là…”
Trần Cung tiếp lời: “Nếu có Kỳ Lân ở đó, cũng sẽ thay mặt chủ công hạ lệnh toàn quân rút khỏi Trường an.”
Ngón tay Lã Bố chỉ Trần Cung một hồi lâu mà không nói được câu nào.
Trần Cung lại nói: “Hầu gia được thời đắc ý, đang lúc địa vị rất cao, Công Đài từng nói chuyện với Kỳ Lân rất lâu, nếu lỡ bại lui khỏi Trường An, thì trong thiên hạ còn nơi nào có thể đi.”
Lã Bố: “Các ngươi… có ý gì?”
Trần Cung nói: “Mọi việc đều cần dự tính đường lui, đừng thấy thắng bại là chuyện thường của binh gia. Tuy là giang sơn nhà Hán, cũng không tồn tại được vạn năm, vua nào thần nấy, vén lên mây mù, khổ tận cam lai, có gì mà không được.”
Ánh mắt Lã Bố đỏ rực: “Hắn nói thế nào?”
Trần Cung cao giọng: “Theo như Công Đài thấy, từ xưa Kinh Châu là vùng binh gia tranh giành nhau, có thể lên kế hoạch thu vào tay; Nhưng Kỳ Lân thì lại cho rằng Kinh Châu cũng là nơi giao tranh của các thế lực, người nghèo vô tội, nhưng người nghèo giấu vật quý thì có tội, Lưu Biểu hoàn toàn không có hành vi không vâng lời, hơn nữa hắn không có lòng phạm thượng, lại là hoàng thân, mạnh mẽ tấn công Kinh Châu không ổn, dễ bị các nhóm chư hầu liên danh chinh phạt.
“Còn có Lương Châu, từ khi Đổng Trác chết thì không có người thống lĩnh, Tịnh Châu ở tái ngoại, cách Trung Nguyên khá xa. Có thể chọn một trong hai nơi này để an cư, bảo lưu thực lực, phát triển nông canh, chiêu mộ binh lính, đợi đám chư hầu ở Trung Nguyên tổn hao thực lực lại xua quân nhập quan.”
Trong lòng Lã Bố bỗng nổi lên một cảm xúc khó tả, kinh ngạc nói: “Kỳ Lân nói đúng, Tịnh Châu là quê cũ của ta…”
Trần Cung lại nói tiếp: “Đó là lực chọn thứ nhất, lựa chọn thứ hai là Dương Châu; nhưng gần đây có tin, Viên Thuật và cha con Tôn thị đã tìm được ngọc tỷ truyền quốc ở thành Lạc Dương, e rằng chỉ vài ngày nữa sẽ động binh xưng đế, không thể tùy tiện tiến quân…”
Nói đến đây, Trần Cung chợt nhớ trước đây từng tác gẫu cùng Kỳ Lân, nghe Kỳ Lân tiết lộ thiên cơ, bất chợt rùng mình.
Lã Bố chậm rãi nói: “Còn nói gì nữa không? Còn chỗ nào đi được nữa?”
Trần Cung định thần lại: “Đào Khiêm ở Từ Châu đã già không người nối nghiệp, có thể tấn công vào đây. Nhưng Từ Châu và lãnh địa Duyện Châu của Tào Tháo lại quá gần nhau, nếu đinh cư ở Từ Châu chắc chắn giao chiến không ngừng.”
Lã Bố: “…”
Trần Cung yên lặng không nói nữa, lát sau đột nhiên cười trào phúng.
Lã Bố muốn mắng cũng không có hơi sức, im một hồi, lại nói: “Phải đi tìm Kỳ Lân, tìm được rồi… Làm theo lời các ngươi.”
Vòng một vòng lớn, cuối cùng cũng quay về chỗ cũ.
Trần Cung nói thêm: “Chủ công, với cục diện như bây giờ, muốn tìm một người trong loạn thế không khác nào mò kim đáy bể, ta có ý này, trước chúng ta cứ công một tòa thành để có một nơi an cư, Kỳ Lân nghe được tin cũng sẽ quay lại tìm.”
“Mặc dù chủ công bại ở Trường An, nhưng trong tay vẫn có bốn vạn thiết kỵ.” Trần Cung nghiêm trang nói: “Ngàn vạn lần không thể hành động theo cảm tính, tiêu hao binh lực, bị tiêu diệt từng chút một. Nay chư hầu trong thiên hạ ở ngoài sáng, chủ công ở trong tối, nên bọn họ phải kiêng kỵ chủ công chứ không phải ngược lại.”
Lã Bố vẫn trầm ngâm, Trần Cung nói của Trần Cung, suy nghĩ Lã Bố đã bay xa, hắn đột nhiên thấy thông suốt, đầu óc chợt linh hoạt không ít.
“Nếu Tào Tháo dùng kế ly gián, nói cách khác, Tào Tháo muốn người của Hầu gia?” Lã Bố nói không đầu không đuôi.
Trần Cung ngạc nhiên, không ngờ tư duy của Lã Bố bay bổng như vậy.
Lã Bố nghe cả buổi trời, đối với cái miệng thao thao bất tuyệt của Trần Cung y như nước đổ đầu vịt, trong đầu chỉ nhớ kỹ chuyện vô cùng quan trọng.
Lã Bố vô cùng ghen tỵ nói: “Rõ ràng quá rồi còn gì! Kỳ Lân chắc chắn đã bị Tào Tháo bắt! Tào gian quỷ đó không có nhân tài nên mới lén trộm người của Hầu gia?!”
Trần cung: “…”
Điêu Thiền: “…”
Lã Bố vung tay lên: “Duyện Châu… Nếu ngươi đã nói thế, thì đầu tiên đi Từ Châu đi. Kỳ Lân là tiểu đệ của ta! Huynh đệ như chân tay, thê tử… thê tử như quần áo.”
Lã Bố nhớ mang máng Kỳ Lân hay đùa như vậy, nhưng vì nhớ không rõ, ngay lúc này đang bừng bừng khí thế lại nói lung tung: “Ai động vào quần áo của ta, ta chém chân tay hắn! Toàn quân nhổ trại! Đi Từ Châu!”
“Khoan!” Lã Bố thở ra một hơi: “Treo giải thưởng… cho người đi tìm Kỳ Lân, Điêu Thiền, cho ta muộn chút trang sức dùng tạm, đồ cưới giấu theo cũng cho mượn luôn, để chuộc… tiểu đệ ta về! Sau này trả lại ngươi.”
Điêu Thiền nghe tới đó sắc mặt xanh ngoét.
Cùng lúc đó ở ngoại thành Ngô quận:
“Thái thú có lệnh, ra vào thành phải có văn thư, nếu có tư binh hơn trăm người thì hạ trại tại chỗ ngoài thành, chờ lệnh!”
Trưa ngày thứ ba, hơn trăm binh Giang Đông, vất vả đến được Ngô Quận, lúc này Thái thú Ngô Quận là Hứa Cống được triều đình bổ nhiệm, có thư báo trong triều, ngăn Tôn Sách và thù hạ ngoài thành.
Tôn Sách phong trần mệt mỏi, cười vang nói: “Tôn Sách Bá Phù con trai Tôn Kiên, dẫn tử đệ binh Giang Đông về quận, xin Hứa Cống đại nhân mở cửa.”
Quân Giang Đông người mệt ngựa mỏi, hành quân lâu ngày, ai cũng mệt nhọc, không ít người còn thân nhân trong thành, nỗi nhớ nhà như mũi tên hướng về hồng tâm, nhưng Hứa Cống chần chờ không mở cửa, giống như ở trong tối quan sát mọi hành động của Tôn Sách.
Trong lòng Kỳ Lân cảm thấy bất an: “Hắn không muốn cho ngươi vào thành.”
Tôn Sách mỉm cười: “Dưới tay ta có hơn trăm người, hắn sao có thể làm chuyện xằng bậy như vậy được?”
Kỳ Lân xoa trán: “Ngươi xem đi, chỉ sợ các quận huyện Giang Đông bắt đầu đề phòng ngươi.”
Tôn Sách cười nói: “Không thể nào, đừng nghĩ nhiều.” Nói xong sửa lại mũ giáp cho Kỳ Lân, rồi hướng về tường thành hô to thêm một lần.
Khoảng một canh giờ sau, cửa thành mở ra, một quản sự của Tôn gia đi ra, từ xa hô to: “Chủ mẫu lệnh ta tới gặp thiếu gia!”
Kỳ Lân nói đúng, tin tức Tôn Kiên tử trận truyền khắp Giang Đông, Viên Thuật lại không phong thưởng hay trợ cấp, càng không nhắc đến việc điều động binh lực mà Tôn Sách đã về tới Ngô Quận, Hứa Cống lập tức đề phòng. Mẫu thân của Tôn Sách là Ngô thị nghe con trai trưởng đã về tới cổng thành, trong lòng vừa mừng vừa lo, đích thân đến phủ Thái thú thương lượng.
“Điều kiện thế nào?” Kỳ Lân hỏi.
Tôn Sách đi đến cửa thành nhận một phong thư rồi quay lại, tức giận nói: “Hứa Cống muốn thu binh của ta, yêu cầu ta giao quân Giang Đông đến trại lính ở thành Đông, đợi chừng nào sắp xếp xong mới được vào thành.”
Kỳ Lân dở khóc dở cười: “Đều tại cái miệng xui xẻo của ta.”
Tôn Sách nhìn Kỳ Lân: “Ngươi liệu sự như thần, chuyện này xử lý thế nào đây? Ta không muốn giao chút binh này cho hắn.”
Kỳ Lân quay đầu nhìn một lượt toán lính sau lưng, chỉ thưa thớt hơn trăm người, đúng là hổ lạc đồng bằng bị chó khinh. Lúc Tôn Kiên xuất chinh có khoảng hơn hai ngàn quân, nay người chết người tản lạc, lại bị Viêm Thuật cắt xén hết tám phần mười, Thái thú châu quận tên nào tên này như hổ đói rình mồi. Chỉ sợ vừa vào thành, gia sản một đời tích cóp được của Tôn Kiên đều theo dòng nước chảy.
“Không thể vào thành.” Kỳ Lân đáp: “Cùng lắm thì đi nơi khác, nơi này không giữ gia, thì có nơi khác giữ gia.”
Tôn Sách gật đầu, hiếm thấy thở dài: “Chỉ tiếc mà chưa gặp được về nhà gặp mẹ đã phải rời đi ngay.”
Còn chưa dứt lời, cửa nhỏ bên cạnh cổng thành mở ra, một chiếc xe ngựa từ xa lộc cộc chạy tới, một lão bộc trên xe bước xuống, đỡ theo một thằng nhóc.
Mây mù trong lòng Tôn Sách nháy mắt tiêu tan, gọi: “Tôn Quyền!” Rồi lên ngựa phi như bay.
Kỳ Lân giục ngựa đuổi theo, đứa trẻ kia chạy về phía này được mấy bước thì té sấp xuống đất, vừa khóc lu loa vừa gọi: “Ca—”
Tôn Quyền đột ngột nhận được tin cha hy sinh, khóc ngất, nhưng Tôn Sách chợt dừng ngựa không đi tiếp nữa, dùng roi ngựa chỉ vào Tôn Quyền quát: “Lớn già đầu khóc lóc cái gì! Đứng lên!”
Tôn Quyền khóc hai mắt sưng húp, Kỳ Lân không đành lòng, nhảy xuống ngựa, kéo Tôn Quyền đứng dậy, hỏi: “Mẹ ngươi đâu?”
Tôn Quyền vừa nất vừa nói: “Mẹ biểu ta đi theo ca… Đến Đan Dương tìm cậu.”
Tôn Sách trầm ngâm thật lâu mới nói: “Đi thôi.”
Kỳ Lân: “Đợi đã.” Nói xong tháo kim châu đeo trên cổ xuống, hỏi: “Ai tình nguyện vào thành một chuyến, đón lão phu nhân ra?”
Tôn Sách sững sốt, nhưng rồi cũng hiểu ý Kỳ Lân.
Kim châu và Xích Thố là hai vật tượng trưng cho Lã Phụng Tiên, trong thiên hạ không ai không biết, không ai không hiểu, cùng với chuyện Lã Bố gϊếŧ Đinh Nguyên đã truyền đi khắp Giang Nam Giang Bắc.
Lã Bố hiện tại dù bại ở Trường An đang chật vật trốn chạy, nhưng vẫn là Ôn Hầu, Phấn Vũ tướng quân, nghi so tam tư do chính Hiến đế tấn phong. Qua việc gϊếŧ Đổng Trác uy danh vang dội như mặt trời giữa trưa, dù đang khó khăn tìm một chỗ dừng chân ở Trung Nguyên thì với thực lực hiện có vẫn có thể đánh ngang hàng với Viên Thiệu.
Hứa Cống dù chịu sự quản lý của Viên Thiệu nhưng vẫn là mệnh quan triều đình, tất nhiên không dám đắc tội với Lã Bố, mất chức quan chỉ là chuyện nhỏ, lỡ như hôm nào đó Lã Bố dẫn quân Nam hạ, san bằng Ngô Quận chỉ là chuyện trong giây lát.
Tôn Sách hiện giờ lông cánh chưa cứng, bị một Thái thú nhỏ nhỏ khi dễ cũng được, nhưng Lã Bố là chư hầu một phương, ai dám đắc tội.
Tôn Kiên ngày xưa dẫn binh nhiều nhất cũng không quá hai ba ngàn, binh trong tay Lã Bố phải tính bằng vạn, Kỳ Lân đưa ra kim châu, tức là đại diện cho việc Lã Bố liên minh với Tôn Sách, chẳng ai biết là mời chào hậu chiến hay chỉ là quan tâm, chỉ cần biết ý của Ôn Hầu, Hứa Cống không được phép nghi ngờ.
Tôn Sách xuống ngựa, thở ra: “Tôn Quyền đi đi, đón nương ra đây.”
Tôn Quyền nín dứt, vẫn không hiểu chuyện gì, ngơ ngác nhìn Tôn Sách.
Kỳ Lân dở khóc dở cười: “Ngươi để một đứa trẻ chín tuổi đi thương lượng thật đấy hả, làm gì có loại ca ca như ngươi chứ?”
Tôn Sách lầm bầm mấy câu vô dụng này nọ rồi nói: “Ngươi cưỡi ngựa của ta, trông chừng hắn, ta đi tìm Hứa Cống.”
Kỳ Lân ôm Tôn Quyền, đặt nhóc ngồi trước ngựa của Tôn Sách còn mình ngồi sau, hai người nhìn theo bóng Tôn Sách đi xa dần, lơ đễnh nói: “Ngươi đặt rất nhiều hy vọng vào ca ngươi.”
Tôn Quyền hít hít mũi, qua hồi lâu không thấy trả lời.
Kỳ Lân vẫn thờ ơ: “Ngựa của ca người tên gì? Ngươi biết không?”
Tôn Quyền lấy làm lạ đáp: “Kinh Phàm(1).”
Con ngựa này toàn thân màu xám tro, bờm màu trắng, trông xa xa như cánh buồm, mỗi ngày đi ngàn dặm, tuy còn xa mới bằng Xích Thố, nhưng cũng là một danh mã hiếm có
Tôn Quyền nói lắp: “Ngươi… ngươi là ai?”
Kỳ Lân không tập trung, chỉ nói: “Tôn Quyền, sau này ngươi sẽ làm hoàng đế đấy, không được hở ra là khóc, ‘sinh con như Tôn Trọng Mưu’,có từng nghe qua chưa?”
Tôn Quyền: “Tôn Trọng Mưu… là ai?”
Kỳ Lân chợt phát hiện mình lỡ lời, bây giờ Tôn Quyền mới chín tuổi, hẳn là chưa có tên tự, đành cười trừ, nhưng Tôn Quyền lại nổi lòng hiếu kỳ, hỏi: “Sinh con… sinh con như… Tôn Trọng Mưu, người này… sinh… sinh… rất nhiều em bé hả, mấy đứa?”
Kỳ Lân cười to bảo: “Không phải ý đó.”
Khi Tôn Sách ra khỏi cổng thành, phía sau là đoàn xe thật dài của Tôn phủ, đa số là các xe chở theo tài sản, vây quanh một chiếc xe lớn, có lẽ là mẫu thân Ngô thị của Sách, Quyền.
Ngô gia là vọng tộc, thời điểm Ngô thị gả cho Tôn Kiên đem theo không ít của cải, những năm gần đây lại xử lý sự vụ trong tộc gọn gàng có thứ tự.
Kỳ Lân còn đang phân vân không biết có nên đến chào hỏi hay không thì thấy Tôn Sách giục ngựa chạy tới, trả lại kim châu: “Lần này nhờ có ngươi.”
“Nói với mẹ ngươi thế nào?” Kỳ Lân nhận kim châu đeo lên cổ.
Tôn Sách cười cười trả lời: “Nơi này không giữ gia, nơi khác giữ gia.”
Kỳ Lân thấy Ngô thị không xuống xe, cũng hiểu bảy tám phần: “Lão phu nhân chắc mới tranh chấp một phen với Hứa Cống, còn đang giận phải không? Hôm nay ta tạm không quấy rầy, đi trước đã, hôm khác chào hỏi với nàng.”
Tôn Sách như trút được gánh nặng, nương hắn tính tình cương trực mạnh mẽ, lúc nãy tranh luận ở phủ Thái thú, giận lên bạt tai người trong phủ, lúc này lại tránh mặt không chịu xuống, làm hắn rất xấu hổ.
Ngoài mặt không tỏ rõ vui giận, nhưng giọng Tôn Sách cũng lạnh đi: “Chuyện xấu hổ này lúc khác sẽ đền. Đại ân hôm nay không lời nào nói hết, tất cả ta đều ghi tạc trong lòng.”
Nói xong liếc Tôn Quyền nói: “Ngươi lên xe với nương đi!”
Tôn Quyền mới nén được bi thương, bị Tôn Sách nạt một câu suýt khóc trở lại, xuống ngựa vội chạy về phía đoàn xe, có quản sự nhanh chóng đỡ vào trong.
Kỳ Lân mỉm cười, cưỡi ngựa Kinh Phàm của Tôn Sách, hai người chạy song song, thẳng tiến về Đan Dương.
Dọc theo dòng sông Giang, thuyền buồm rợp trời, ngư ca(2)
sớm tối, khắp nơi khói bếp, làm cho lòng người cũng khoáng đạt.
Tôn Sách hộ tống thân nhân đến Đan Dương, ai nấy thở phào nhẹ nhõm, nhưng Kỳ Lân lại không lạc quan lắm, bởi vì những khó khăn của Tôn Sách bây giờ mới bắt đầu.
Anh trai Ngô Cảnh của Ngô thị là Thái thú Đan Dương. Gia đình đoàn tụ thật là vui vẻ thuận hòa. Trong ngày hôm đó lập tức chuẩn bị nơi ở lại cho Tôn Sách, cả nhà được sắp xếp vào một trạch viện rộng rãi. Thành Tây có quân doanh, thân binh của Tôn Sách lưu trú ở đó.
Nơi này điều kiện sống rất khá, Kỳ Lân cũng không có ý kiến gì, đã đến tận đây rồi thì ở đây xem sao.
Thời tiết đang lạnh dần, chính là thời điểm đất Ngô đã lập Đông, Tôn Sách cũng không tính để môn khách nhà mình ăn không ngồi rồi nữa, mấy ngày ở Đan Dương, Tôn Sách an bài cho Kỳ Lân ở một thiên viện, cắt cử cho hắn thêm ba gã sai vạt để tiện sai sử, an nhàn chưa bao lâu thì có người đến truyền lời.
Quản sự đi trước dẫn đường, nha hoàn nâng mâm theo sau, trên mâm che một tấm vải đỏ, Kỳ Lâm mở ra thấy trong đó đầy bạc nén, tám nén 1 hàng, xếp ngay ngắn khoảng mười hàng, có tầm tám mươi lượng bạc.
“Định làm gì đây.” Kỳ Lân dở khóc dở cười: “Đã bao ăn bao ở rồi, ta lại không có việc cần dùng tiền.”
Quản sự cười đáp: “Thiếu chủ nói, chút ngân lượng này là tạm biểu lộ thành ý, gửi tiên sinh chi tiêu hàng ngày.”
Kỳ Lân tùy tiện lấy hai nén: “Thành ý ta nhận rồi, còn lại ngươi mang về, đây là lúc hắn cần dùng tiền, đừng vì những thứ hư danh này khiến ta xem thường.”
Quản sự cứ nài nỉ mãi, Kỳ Lân nhất định không nhận, quản sự đành đem ngân lượng mang về chỗ Tôn Sách, lát sau lại đến chuyển lời: “Thiếu chủ mời tiên sinh cùng đến ăn cơm tối.”
Kỳ Lân tiện tay lấy hai nén bạc kia thưởng luôn cho hắn, theo ra tới sảnh. Tôn Sách đã bận rộn suốt một ngày, trông có vẻ mệt nhọc, thở ra một hơi, không nhắc đến chuyện ngân lượng, chỉ hỏi thăm: “Mấy ngày ở đây thế nào?”
Kỳ Lân cười: “Cũng được, nhà của ngươi thái độ phục vụ rất tốt.”
Thấy trong phòng khách còn người, Kỳ Lân đoán là văn sĩ mới tới nương nhờ Tôn Sách, hắn gật đầu chào hỏi xong ngồi vào bàn, cũng không hỏi nhiều.
Tôn Sách cảm thấy buồn cười, cách nói chuyện của Kỳ Lân luôn luôn thú vị như vậy, hạ nhân dọn đồ nhắm và rượu lên, Tôn Sách tự rót tự uống: “Xin mời, đừng khách sáo.”
Kỳ Lân lại nói: “Măng mùa Đông này khá ngon, ăn nhiều rau cải mới mau lớn.”
Tôn Sách mỉm cười: “Ăn nhiều thịt nữa, nếu không thì không có sức đâu, thịt nai này mấy hôm trước ta đi săn được đấy.”
Kỳ Lân cũng rót rượu kính Tôn Sách.
Cạn ly, Tôn Sách mím môi để rượu trôi xuống, cầm đũa gõ nhẹ lên ly rượu: “Vị này là Trương Hoành tiên sinh, hắn có tin tức gần đây nhất của Hầu gia.”
“Vẫn là đất Giang Đông tốt.” Trương Hoành ung dung nói.
Tôn Sách cười: “Phía Nam vốn là nơi thích hợp trải qua mùa Đông mà, vị tiểu huynh đệ này là môn khách trong phủ ta, tên Kỳ Lân.”
Kỳ Lân thấy lão nam nhân này lúc nghe tên mình ra chiều suy nghĩ, giống như đã từng nghe ở đâu rồi, cảm thấy hứng thú hỏi: “Hiện giờ Ôn Hầu thế nào?”
Trương Hoành đáp lời: “Ôn Hầu tiến quân Duyện Châu mấy lần đều không có kết quả, thất bại tan tác mà về. Trước khi lâm chung, Đào Khiêm đem Từ Châu gửi gấm cho Lưu Huyền Đức, Ôn Hầu đóng ở thành Tiểu Bái, chờ thời cơ.”
Tôn Sách cau mày: “Thế thúc từ phương Bắc đến, có biết tại sao Phấn Vũ tướng quân lại kết thâm thù đại hận với Tào Mạnh Đức không?”
Trương Hoành trả lời: “Sao mà biết được? Không chỉ có lão hủ thắc mắc, mà mọi người đều thắc mắc. Ôn Hầu không về Tịnh Châu mà liều chết đuổi sát theo Tào Tháo đánh tơi bời hoa lá.”
Kỳ Lân ngán ngẩm, hồi lâu mới hỏi: “Điêu Thiền đâu?”
Trương Hoành thản nhiên nói: “Điêu Thiền nghiêng nước nghiêng thành… Nghe đâu vẫn còn ở bên cạnh Hầu gia, có mỹ nhân làm bạn, chinh chiến thiên hạ cũng không uổng một giai thoại anh hùng mỹ nhân.
Kỳ Lân thở dài.
Tôn Sách thổn thức: “Tiếc rằng thực lực của ta còn yếu, võ nghệ không bằng ai, không kết giao được với nam nhân hiếm thấy này. Phụng Tiên một mình diệt Đổng tặc, giúp đỡ nhà Hán, nay lại bị Tào gian quỷ đánh cho trốn Đông trốn Tây, chịu khuất nhục ở Tiểu Bái, thế gian này còn vương đạo không, nhân nghĩa ở nơi nào?!”
Ý nói, nếu trong tay hắn có binh, bên người có tướng thì ít cũng xuất binh trợ giúp hoặc đầu nhập vào.
Trương Hoàng nói: “Nay ta có ý này, theo lão hủ, Bá Phù cũng nên chiêu binh mãi mã, mở rộng thực lực cho mình đi.”
Kỳ Lân cắt lời: “Ta lại thấy, vấn đề đầu tiên cần giải quyết không phải mở rộng quân bị, mà là cậu ngươi.”
Trương Hoành ngạc nhiên: “Sao lại nói như vậy?”
Tôn Sách thì trách: “Đừng có nói tầm bậy, ta xem ngươi như tay chân, hà cớ gì châm ngòi quan hệ cậu cháu chúng ta?”
Kỳ Lân không nói gì, rời khỏi bàn ăn đi ra đình viện.
Tôn Sách không yên lòng, chỉ nói thêm mấy câu với Trương Hoành rồi tiễn người đi, khoác thêm áo choàng lông cừu vội đi đến hậu viện.
“Lời nói ban này ta không cố ý.” Tôn Sách lên tiếng: “Nếu xúc phạm ngươi…”
Kỳ Lân không để trong lòng, chỉ nói: “Hạ nhân, nha hoàn trong phủ chắc đang lén đi báo tinh cho Ngô Cảnh. Chúng ta có thể mượn chuyện này để nói việc khác, ngày mai ngươi xin cậu ngươi một mảnh đất trống đi.”
“Đừng giải thích gì cả, chỉ cần hắn nghe tin này, chắc hắn cũng sẽ không tiếp tục thờ ơ với ngươi nữa.”
Tôn Sách lặng đi một chút, lại nói: “Ngươi luôn biết rõ ta nghĩ cái gì.”
Kỳ lân đáp: “Từ hôm đến Đan Dương đến giờ ta vẫn luôn cảm thấy lo lắng, kết quả so với phỏng đoán cũng không khác nhau nhiều, ngươi dù sao cũng không phải họ Ngô, cậu ngươi sợ ngươi bành trướng thế lực cũng là chuyện bình thường.”
Tôn Sách mỉm cười: “Ta lại hy vọng rằng, hắn không an tâm, cảm thấy ta không đủ gánh vác trách nhiệm lớn lao, nên mặc kệ ta không ngó ngàng gì tới.”
Kỳ Lân nhẹ nhàng nói: “Vậy coi như ta lắm mồm gây xích mích các ngươi, tối hôm nay ta lập tức đi.”
Tôn Sách lúng túng: “Khoan.”
Trong viện tuyết rơi lả tả, âm thanh xào xạt.
Kỳ Lân cười như không nhìn hắn, Tôn Sách yên lặng trong chốc lát, đột nhiên hỏi: “Mỗi lần ngươi đều nói đúng chuyện ta không muốn nghĩ tới nhất, lúc trước ngươi làm mưu sĩ cho Ôn Hầu cũng nhanh mồm lẹ miệng như thế à?”
Kỳ Lân đáp: “Nên mới bị ghét, bị bỏ lại trong thành Trường An nè.”
Tôn Sách cười lên, nam nhân anh tuấn này tính tình lạc quan thân thiết, chưa bao giờ làm người đối diện cảm thấy ác cảm, hắn giảng giải: “Theo ta được biết, với tính cách của Ôn Hầu, hẳn không phải là người hẹp hòi như vậy.”
Kỳ Lân: “Khó nói lắm, mắng người thì tìm khuyết điểm, đánh người thì phải cho bẽ mặt. Ngày nào đó ngươi bị vạch trần chắc cũng nổi trận lôi đình cho coi.”
Tôn Sách mỉm cười: “Thuốc đắng giả tật, nếu ngươi có vạch trần ta, ta chắc chắn sẽ không không gây khó dễ cho ngươi.”
Hai người tư tưởng tương thông, cũng không nói thêm gì nữa, đầy trời tuyết bay phiêu đãng.
Sau một hồi, Tôn Sách mới nói: “Đời này của ngươi cứ ở lại Giang Đông đi, đợi ngày nào đó nhà của ta giàu rồi, chắc chắn sẽ đối xử càng tốt với ngươi.”
Kỳ Lân không đáp.
Tôn Sách nghiêng đầu quan sát Kỳ Lân, một ý nghĩ chợt nảy ra: “Hay là chúng ta kết nghĩa huynh đệ đi, thế nào?”
Kỳ Lân chế nhạo: “Huynh đệ kết nghĩa của ngươi mấy ngày nữa sẽ tới, còn ở đó tìm người kết nghĩa, không sợ hắn ghen à?”
Tôn Sách cau mày, không hiểu ý, nhưng Kỳ Lân lại đúng nữa. Ba ngày sau, bằng hữu tốt nhất đời này của Tôn Sách đến.
“Bá Phù, ta mang theo ba vạn hoàng kim, hai ngàn binh mã tới giúp ngươi đây!”
Chu Du chưa tới, tiếng đã tới trước rồi.
Tôn Sách, Tôn quyền, một lớn một nhỏ, đang ngồi trước lò sưởi học thổi huân với Kỳ Lân, thổi cứ nghe u u không tới đâu, vừa nghe tiếng của Chu Du, ngay cả giày Tôn Sách cũng không kịp mang, chân trần dẫm lên tuyết chạy ra ngoài, mừng rỡ: “Công Cẩn! Sao không thông báo cho ta một tiếng!”
Chu Du với Tôn Sách cũng có mấy năm không gặp, cứ thế đi một mạch vào phủ, cười đùa sảng lảng làm Kỳ Lân có một ý nghĩ thoáng qua, liền đặt huyên xuống, đứng dậy chắp tay.
“Tiếng nhạc vừa rồi có phải là khúc ‘Thượng cổ tam triều’ không?” Chu Du cởϊ áσ choàng lông cừu, đứng trong tuyết, dắt tay Tôn Sách cùng đi vào, thật như một đôi thiếu niên bằng ngọc vậy.
“Chu Công Cẩn, ngưỡng mộ đã lâu.” Kỳ Lân chào.
Trong khi tôn Sách kích động nói không ngừng: “Kỳ Lân nói vài ngày nữa huynh đệ kết nghĩa của ta sẽ tới, không ngờ ngươi tới thật…”
“Ngưỡng mộ đã lâu, Kỳ Lân tiên sinh, mấy ngày trước Ôn Hầu chiếu cáo thiên hạ, nếu ai tìm được ngươi, hộ tống ngươi về tới quân doanh Tịnh Châu…” Chu Du không thèm để ý đến Tôn Sách, chắp tay với Kỳ Lân.
Chu Du như một khối ngọc không tỳ vết giữa trời tuyết trắng: “…sẽ được thưởng một ngàn lượng hoàng kim, mấy ngày trước được tin của Bá Phù huynh, bảo rằng trong tay thiếu cái chi tiêu, nếu bây giờ đưa ngươi về Tiểu Bái, chúng ta chia năm mươi năm mươi, ngươi thấy thế nào?”
Kỳ Lân hơi ngẩn người, sau đó hỏi lại: “Tên lỗ mãng đó… đang tìm ta?”
——————————-
Lời tác giả:
Kinh Phàm theo truyền thuyết dân gian vừa nói là ngựa của Tào Tử Đan, Tào Chân và Tư Mã Ý đánh cược thắng được trong nhóm danh mã của Đại Uyên (một nước Tây vực thời nhà Hán). Một ý khác thì cho rằng “Kinh Phàm – Khoái Hàng” đôi ngựa một đực một cái này là ngựa của Tôn Sách và Tôn Quyền.
——————————-
Chú thích:- Phàm: nghĩa là cánh buồm.
- Ngư ca: bài ca của ngư dân