Mảnh Đất Này Ta Đã Nhận Thầu

Chương 10: Nhà Đất

Gần đây, Hà Đông thôn có một sự kiện lớn khiến ngay cả Hà Tây thôn bên kia sông cũng nghe được tin tức.

Cát Lão Đại đang cuốc đất, mấy chục mẫu đất nhà họ Cát chỉ có anh và em trai làm việc, phải tranh thủ thời gian cày cho xong cánh đồng đã đóng băng cả mùa đông. Đất nhà anh chỉ là loại đất bậc dưới, lại chỉ có hai mẫu. Trong nhà, cha mẹ đã già yếu, không thể xuống ruộng làm việc nữa. Vì nhà nghèo, Cát Lão Đại đã hai mươi sáu tuổi nhưng vẫn chưa có vợ.

Cả gia đình họ sống nhờ vào việc làm thuê cho chủ nhà, chủ nhà tốt bụng, mỗi lần đều cho họ thêm giống tốt để tự canh tác. Hiện giờ, chủ nhà đã thông báo rằng đầu tháng ba phải trồng lúa mì. Anh cần tranh thủ thời gian, sau khi cày xong ruộng nhà chủ, sẽ còn phải mượn cuốc để cày nốt hai mẫu ruộng nhà mình. Nếu chủ nhà thu lại cuốc, anh chỉ còn cách dùng tay đào đất mà thôi. Vì không có tiền thuê dụng cụ nông nghiệp, dù đất còn cứng, anh cũng phải cắn răng mà làm.

Cát Lão Nhị, em trai của Cát Lão Đại, đi song song bên anh, tay vung cuốc. Trời chưa kịp ấm, nhưng cả hai người đều đã đổ mồ hôi trán. Cát Lão Nhị lên tiếng: “Anh à, nghe nói bên Hà Đông thôn đang xây nhà hả?”

Cát Lão Đại cúi lưng xuống, mỗi nhát cuốc xới lên một tảng đất cứng, sau đó anh đập vỡ đất: “Chú nói gì lạ vậy? Không phải mùa thu năm ngoái bọn lưu dân chiếm mất thôn đó sao? Còn có không ít lưu dân bơi qua sông đến đây, chú quên rồi à?”

Cát Lão Nhị đi chân trần, ngón chân lấm lem đầy đất, anh cúi xuống bới bùn ra: “Cũng đúng.”

Thật ra, anh ta cũng không tin lắm. Hà Đông thôn hiện giờ có thể sống sót qua ngày đã là tốt, còn ai đủ sức để xây nhà nữa. Nhưng trong thôn, Lưu Tứ lại kể vanh vách. Nhà Lưu Tứ có một chiếc thuyền nhỏ, do con sông Trường Hà chia cắt hai thôn, không có cầu nối. Muốn sang thôn bên kia, phải đi vòng rất xa. Vì vậy, hằng ngày, chỉ có thuyền nhà Lưu Tứ đưa người qua sông.

Sông Trường Hà bắt đầu tan băng, chỉ còn một lớp băng mỏng. Lưu Tứ chèo thuyền đi bắt cá, định bụng ăn một bữa cải thiện. Không ngờ, khi đi đến gần Hà Đông thôn, anh ta thấy người dân ở đó đang bận rộn di chuyển vật liệu từ trên sườn núi xuống.

Lưu Tứ gặp Vương Lục Thúc, người đang ôm một cái giỏ đầy đất. Vừa nhìn thấy Lưu Tứ, ông lão trừng mắt với anh ta. Lưu Tứ hiểu, Vương Lục Thúc vẫn giận vì anh ta đã thu thuyền, không cho dân thôn Hà Đông chạy nạn sang bên này. Nhưng Lưu Tứ cũng đành chịu, nếu không thu thuyền, Hà Tây thôn cũng sẽ gặp nguy.

Mặc dù vậy, Vương Lục Thúc cũng biết lý lẽ. Hơn nữa, vào mùa đông, người Hà Tây thôn cũng lén lút đưa củi và thức ăn qua cho họ, nên trong lòng ông không còn giận nữa. Giờ đây, ông chỉ mong xây nhà xong, có thể sống một cuộc sống bình yên. Cuối cùng, Lưu Tứ đã dụ được Vương Lục Thúc bằng một con cá. Ông lão tiết lộ rằng vị tiểu huyện lệnh mới tới Cảnh Dương đã quyết định giúp họ xây nhà ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè.

Lưu Tứ nghe xong phải mất một lúc mới hiểu, nhưng vẫn không thể tin nổi. Huyện lệnh mới? Khi nào huyện lệnh lại thay người? Và nhà ấm mùa đông, mát mùa hè là gì? Còn tốt hơn cả nhà của chủ gia sao?

Dù không hiểu, Lưu Tứ vẫn mang câu chuyện về kể lại cho mọi người trong thôn. Người trong thôn nghe xong chỉ cười cho qua chuyện. Lúc này, ai cũng bận bịu chuẩn bị cho vụ mùa xuân, đâu có thời gian chạy qua Hà Đông thôn kiểm chứng tin đồn.

Chuyện huyện lệnh xây nhà giúp dân? Nếu có một huyện lệnh như vậy, chẳng phải là thần tiên hạ phàm cứu khổ cứu nạn hay sao? Nhưng trên đời làm gì có chuyện tốt như vậy?

Trong khi Hà Tây thôn đang bận rộn gieo cấy, thì Hà Đông thôn đã bắt đầu rộn ràng xây nhà đất.

Nhà đất này là do Triệu Kha Nhiên học được từ một ông lão khi còn ở căn cứ. Khi đó, căn cứ mới thành lập, tài nguyên thiếu thốn trầm trọng. Đất không thể trồng trọt được, tất cả bỏ hoang. Căn cứ đầy người, vấn đề ăn ở trở thành gánh nặng. Sau đó, một ông lão họ Đường nghĩ ra cách giải quyết vấn đề nhà ở. Ông Đường kể rằng, hồi trẻ ông sống trong nhà đất, và đã từng giúp xây nhà. Dù đất không thể trồng trọt, nhưng không có chất phóng xạ, nên miễn là không ăn phải, thì sống trong đó vẫn an toàn.

Nhà đất rất dễ xây. Triệu Kha Nhiên dùng một nhánh cây nhỏ vẽ trên mặt đất một mẫu thiết kế gồm bốn miếng gỗ, hai miếng ngắn và hai miếng dài, các đầu được khoét rãnh để gắn vào nhau.

Anh ngồi xổm, chỉ vào bản vẽ và giải thích: “Hai miếng dài bằng nhau, hai miếng ngắn bằng nhau.”

Trong nhóm lưu dân, có một người từng làm thợ mộc, liền hiểu ngay ý tưởng của Triệu Kha Nhiên. Chẳng mấy chốc, những miếng gỗ được làm xong, ghép lại với nhau, và một cái khuôn đúc gạch đất đã hoàn thành. Triệu Kha Nhiên đưa cái khuôn cho người thợ mộc: “Cứ làm nhiều cái như thế này.”

Hiểu được cách làm, những người khéo tay khác cũng giúp làm khuôn, còn những người khỏe mạnh thì được Triệu Kha Nhiên cử đi đào đất. Dĩ nhiên, đất không thể lấy từ ruộng mà phải đào từ trên núi.

Đất đào về được trộn với nước, nhặt sạch sỏi đá, còn cỏ thì để lại. Đất trộn đều rồi đổ vào khuôn, những cọng cỏ sẽ giúp ngăn đất khô bị nứt.

Mặt đất phẳng dưới chân núi Cảnh Dương đã chất đầy gạch đất, và giờ chúng có thể gọi là “gạch đất.”

Triệu Kha Nhiên nhìn đống gạch đất dưới chân và những người dân đang miệt mài làm việc, anh thầm nghĩ: “Giá mà có vỏ lúa mì thì tốt biết mấy.”

Vương Lục Thúc đang vác một giỏ đất ngang qua, nghe thấy Triệu Kha Nhiên lẩm bẩm thì hỏi: “Có vỏ lúa mì đấy.”

“Mùa thu năm ngoái không đốt à?” Triệu Kha Nhiên giật mình quay lại.

“Năm ngoái chưa kịp đốt thì bọn lưu dân đã kéo vào thôn rồi. Tất cả còn chất đống ở khe núi, không biết giờ thế nào. Huyện lệnh đại nhân cần vỏ lúa mì để làm gì vậy?”

Triệu Kha Nhiên hiện đã có chút uy tín ở Hà Đông thôn, được dân làng kính trọng gọi là “huyện lệnh đại nhân.” Mặc dù vẫn chưa quen với cách xưng hô này, nhưng dẫu sao còn đỡ hơn bị gọi là “tiểu oa nhi.”

“Ông đưa ta đi xem.”

Vương Lục Thúc dẫn Triệu Kha Nhiên đến khe núi, nơi ông nói có đống vỏ lúa mì. Đúng như lời ông lão, có rất nhiều vỏ lúa, chắc chắn là đủ dùng.

“Vương Lục Thúc, làm phiền ông dẫn theo vài người, chuyển đống vỏ này xuống chân núi giúp ta.”

Vương Lục Thúc xua tay cười, nếp nhăn trên mặt càng hằn rõ: “Không phiền, không phiền chút nào.”

Thời gian cứ thế trôi qua, mỗi ngày Triệu Kha Nhiên đều phải chạy đi chạy lại giữa huyện nha và Hà Đông thôn. Nhưng công trình xây nhà đất ở Hà Đông thôn đã vào guồng, và anh luôn theo sát công việc, nhấn mạnh từng chi tiết: “Sau mỗi ba viên gạch đất, phải quét thêm một lớp bùn để gắn kết chặt chẽ, tránh tạo kẽ hở giữa các viên gạch. Phải cẩn thận không được bỏ sót. Cửa để ở phía này, hai bên cửa chừa chỗ cho cửa sổ. Khi làm cửa sổ, nhớ dùng gỗ đỡ phía trên để đặt gạch đất cho chắc chắn.”

Sau khi dựng xong khung nhà, cần phải quét một lớp bùn bên ngoài để bảo vệ gạch đất khỏi bị phong hóa, nứt vỡ. Lớp bùn này sẽ cần thêm vỏ lúa mì để tránh nứt nẻ.

Khi lợp mái nhà, nếu cửa hướng về phía nam thì hai bên mái sẽ dùng cột gỗ để đỡ, tạo thành hình tam giác và lấp đầy bằng gạch đất. Phía giữa có một thanh ngang chính, hai bên có thêm hai thanh phụ gọi là "năm xà."

Nếu cửa hướng về phía đông, thì cột gỗ sẽ dựng ở hai bên nam và bắc.

Trên mái nhà, nếu không có ngói, Triệu Kha Nhiên đã được Đường lão tiên sinh chỉ cách sử dụng lau sậy và cỏ tranh. Sau khi dựng khung xong, phải trải một lớp lau sậy dày lên, rồi phủ một lớp bùn trộn nước, sau đó là lớp cỏ phủ lên trên cùng.

Nhớ lại những chi tiết trong cuộc trò chuyện với Đường lão tiên sinh, Triệu Kha Nhiên liền dẫn người đi cắt lau sậy từ bãi gần đó.

Dạo gần đây, Triệu Tiểu Ngư rất vui vẻ. Mỗi ngày cậu bé đều có thể ở bên cạnh ca ca. Dù đôi lúc không gặp được anh, nhưng cậu vẫn có thể chơi đùa với mọi người và bùn đất, quan trọng hơn là cậu đã kết bạn mới!

“Anh An An, gà trống của anh thật sự không biết đẻ trứng sao?” Triệu Tiểu Ngư vừa kéo tay Hách An vừa thắc mắc về con gà trống của cậu ấy.

Hách An rất kiên nhẫn, mấy ngày nay luôn bị cậu bé lẽo đẽo theo sau hỏi đủ chuyện lạ lùng. Nhưng cậu vẫn nhẹ nhàng trả lời: “Không đẻ, Đại Hoàng là gà trống, không phải gà mái.”

Triệu Tiểu Ngư như hiểu ra, gật đầu lia lịa: “Anh hai của đệ bắt được hai con gà, đệ đã đặt tên cho chúng, anh hai còn khen đệ đặt tên hay nữa. Một con tên là Ô Ô, còn con kia tên là Đản Đản. Ô Ô không đẻ trứng, nhưng nó cứ kêu hoài.

Còn Đản Đản không kêu, nhưng mỗi ngày nó đẻ rất nhiều trứng. Đệ ngày nào cũng ăn trứng của Đản Đản, ngon lắm! Lần sau đệ sẽ mang trứng cho anh An An ăn thử nhé, anh sẽ biết ngay thôi.”

Nghe đoạn hội thoại dài của cậu bé, Hách An có chút choáng váng, nhưng cuối cùng cũng hiểu được. Cậu vừa định từ chối thì lại nghe Triệu Tiểu Ngư hỏi thêm một câu ngây ngô khác: “Anh An An, anh có biết đẻ trứng không?”

Hách An: ...

“Không… không biết.” Hách An trả lời, nhưng mặt mũi đỏ bừng vì xấu hổ.

Nghe vậy, Triệu Tiểu Ngư thất vọng, nét mặt trở nên buồn rười rượi: “A... Vậy sao...”