Dịch: Phong Bụi
Từ đó về sau, Trình Phượng Đài quả thật giữ lời, mỗi ngày thức dậy sẽ tới chỗ Thương Tế Nhụy thỉnh an. Trình Phượng Đài thấy y liền cao giọng kêu: “Ông chủ Thương cát tường!” Thương Tế Nhụy gật gật đầu, trang trọng mỉm cười: “Nhị gia hãy bình thân!” Ngày lại một ngày, cứ hai câu như vậy, thế nào cũng chơi không chán. Tiểu Lai cùng lão Cát đều rất quen thuộc với đôi thần kinh quyến lữ này. Thỉnh thoảng có một ngày Trình Phượng Đài tới trễ, Thương Tế Nhụy liền không hài lòng.
Trình Phượng Đài bây giờ để điểm tâm hắn ăn khi uống hồng trà toàn bộ đều cất giữ ở chỗ Thương Tế Nhụy, đến liền uống trà ăn điểm tâm, giống như ở nhà vậy, coi Thương trạch thành nhà hàng. Hắn không thích ăn ngọt, điểm tâm đều là vị mặn. Thương Tế Nhụy ban đầu nhìn thấy mấy thứ bánh trứng cuốn thơm ngát, vui mừng túm lấy liền cắn, kết quả mỗi loại cũng chỉ cắn một cái, tất cả đều không thích, bởi vì không ngọt. Trình Phượng Đài đổ vào hồng trà của y chút sữa bò cùng đường trắng, đổi thành trà sữa kiểu Anh y liền vô cùng thích uống, rất là chà đạp trà ngon của Trình Phượng Đài.
Lúc Trình Phượng Đài ăn điểm tâm, chính là lúc Thương Tế Nhụy ăn cơm trưa, thường thường cũng chỉ thuận tiện ăn chung. Thương Tế Nhụy mặc dù bữa nào bữa đó nhất định phải thấy thịt, Tiểu Lai lại có thủ pháp làm món ăn của người miền Bắc, có lúc khẩu vị có chút nặng, hơn nữa có một ít nguyên liệu phối hợp như mì, hành, tỏi… Trình Phượng Đài có lúc ăn không quen, liền đặt đũa lên trên chén, nói: “Đi! Ông chủ Thương! Chúng ta đi ra ngoài ăn! Ăn vịt quay nhé?” Vừa ôm bả vai Thương Tế Nhụy liền đi, để lại một bàn thức ăn. Quá khứ khi Trình Phượng Đài không có ở đây, Tiểu Lai cũng cùng ăn cơm một bàn với Thương Tế Nhụy. Từ khi Trình Phượng Đài tới, Tiểu Lai một mình đơn độc ăn tại phòng bếp. Tiểu Lai vì loại chuyện nhỏ này, càng thêm oán hận hắn, thấy hắn liền phiền lòng nhíu mày lại. Sau đó vẫn là Thương Tế Nhụy cảm giác được, Trình Phượng Đài lại muốn đi ra ngoài ăn, Thương Tế Nhụy liền lặng lẽ nói: “Những thức ăn này đều rất được, ăn là xong bữa rồi, lười đi ra ngoài quá.” Trình Phượng Đài biết y thèm ăn nhất, không thể nào không thích ra quán ăn, ánh mắt hoài nghi nhìn y, Thương Tế Nhụy khổ sở nói: “Chúng ta cứ như vậy, Tiểu Lai sẽ không vui. Cô ấy đã không vui rồi!” Trình Phượng Đài cũng không muốn chọc giận Tiểu Lai, đàng hoàng tùy tiện ăn một chút. Nhưng mà Tiểu Lai gặp được, lại sẽ rất không vui nghĩ: Không phải chê thức ăn ta làm không ngon sao? Ngươi còn ăn cái gì! Ngươi không phải có tiền đi ăn quán sao? Trình Phượng Đài để trả ơn cô nấu nướng mà mua quà cho cô, cô chưa từng nhận lấy một thứ, cúi đầu uốn người liền đi, bất kể Trình Phượng Đài ở phía sau gọi thế nào cũng không để ý. Đặt ở trước cửa phòng cô một bộ son phấn Tạ Phức Xuân (nhãn hiệu đồ trang điểm hàng đầu), nghĩ cứng rắn kín đáo tặng cho cô, cô hẳn sẽ không từ chối đâu? Mọi cô gái đều thích mà. Kết quả một tháng sau vẫn còn nguyên ở đó. Cô là quyết ý muốn bất hòa với Trình Phượng Đài.
Thương Tế Nhụy nhận được kịch bản hí do Ninh Cửu Lang hơi cải biên trong ngày thọ yến của An vương lão Phúc tấn đó, lần nữa khơi dậy nhiệt tình của y đối với côn khúc. Mấy ngày này, côn khúc liền không rời miệng y. Sau khi y bắt đầu dính đến côn khúc, tốn khí lực rất lớn, nghịch trào lưu lại diễn chừng mấy ngày trọn bộ Mẫu Đơn đình, Tây Xương ký. Côn khúc từ đầu đến cuối tương đối được hoan nghênh trong giới văn hóa thượng lưu, những người bạn văn nhân nhã sĩ kia của Thương Tế Nhụy phản ứng nhiệt liệt đối với điều này. Nhưng mà thế đạo ngày nay, không thể nghi ngờ là Kinh kịch được hoan nghênh nhất, những thể loại hí gì khác đều là lấp sân khâu, đệm thêm. Thật may chỉ cần là hí của Thương Tế Nhụy, chỗ ngồi vẫn lấp đầy vị trí như cũ, nếu không giám đốc hí viện thế nào cũng phải nổi nóng với y. Hầu Ngọc Khôi sau khi gặp Thương Tế Nhụy ở An vương phủ liền tương đối chú ý đến y, nghe người ta nói y gác lại Kinh hí hát côn khúc, trong lòng không khỏi có chút lo lắng, mấy ngày liền cho gọi Thương Tế Nhụy vào trong phủ. Thương Tế Nhụy được yêu quý mà kinh sợ, mặc một bộ đồ mới đi lắng nghe dạy bảo, tất cả mọi người đều suy đoán lão Hầu chuẩn bị chỉ điểm cho y, giống như năm đó Ninh Cửu Lang thổi cho y một ngụm tiên khí vậy. Thật ra thì Thương Tế Nhụy ở Hầu Ngọc Khôi nơi đó chỉ học được làm sao phục vụ hút thuốc đốt thuốc, Hầu Ngọc Khôi tâm sự một phen về những câu chuyện sử thất truyền của lê viên, cũng không bàn về hí với y. Chỉ có một ngày khi Thương Tế Nhụy cáo từ, Hầu Ngọc Khôi không nhịn được nói: “Hát cho tử tế, chớ thay lòng đổi dạ, xao nhãng hí!” Thương Tế Nhụy khom người đáp dạ.
Thương Tế Nhụy đối với nhân vật sùng bái, thật có loại thái độ thiện nam tín nữ khác với bình thường, cũng chẳng tùy tiện thích làm gì thì làm, chẳng sợ ai như vậy nữa. Tỷ như y đối với Hầu Ngọc Khôi, nếu là người khác khi y hát đến lúc hứng thú cho một câu như vậy, y nhất định phải nói: Kinh hí cũng là hí, côn khúc cũng là hí, dựa vào cái gì hát côn khúc lại là thay lòng đổi dạ, ta hát cái gì cũng không phải chuyện của ngươi! Ở chỗ Hầu Ngọc Khôi, y chỉ có thể ngoan ngoãn nghe lời. Tỷ như đối với Nguyên Tiểu Địch. Trình Phượng Đài lần trước thuận miệng hứa sẽ sắp xếp cho hai người bọn họ gặp mặt, sau khi từ biệt liền quên mất. Nhưng Thương Tế Nhụy vẫn nhớ, nhớ cũng không nhắc nhở hắn, nhịn một mình tự khó chịu. Thương Tế Nhụy chính là kỳ cục như vậy.
Có một ngày khi đang ăn cơm trưa, thức ăn chỉ có một nồi cải trắng canh gà qua đêm cùng nước tương đậu hũ, không có đồ ăn ngon, tính khí Thương Tế Nhụy liền bộc phát, gây sự với Trình Phượng Đài: “Nguyên Tiểu Địch của em đâu! Anh đã hứa rồi!”
Trình Phượng Đài dừng đũa lại, nheo mắt lại nhìn y: “Cái gì gọi là Nguyên Tiểu Địch “của em”? Anh ta làm sao thành “của em” rồi?”
Thương Tế Nhụy tự biết lỡ lời, cũng không tiếp lời, chỉ nháo muốn gặp Nguyên Tiểu Địch. Trình Phượng Đài làm bộ như chưa từng quên, mặt không đổi sắc nói: “Anh ta gần đây rất bận, anh hẹn anh ta rồi, qua hai ngày nữa hẳn có thể gặp được. Chúng ta tìm một quán ăn đồ Hồ Nam được không? Em trước hết nghĩ xem xem, khi gặp mặt trò chuyện gì cùng người ta.”
Thương Tế Nhụy đứng lên, mò ra một cái đùi gà từ trong đáy nồi, tay không gỡ thịt gà chấm nước tương gặm ăn, tư thế kia giống như thổ phỉ trong sơn trại: “Em cũng không biết phải nói gì với anh ta, em chẳng nói cái gì hết.”
Trình Phượng Đài cau mày cười khổ nói: “Em trước sửa đổi lối ăn uống một chút, đến lúc đó lại hù chết người ta.”
Thương Tế Nhụy dùng mu bàn tay lau miệng: “Ở bên ngoài em làm sao có thể như vậy được. Ông chủ Thương cực kỳ lịch sự.”
Ông chủ Thương văn nhã vào ngày hẹn hò, cầm một chiếc quạt xếp trong tay, người mặc bộ áo chẽn lụa màu xanh đá. Cuộc sống y giản dị, việc làm đỏm lớn nhất trong ngày thường đơn giản chỉ là bôi chút dầu lên tóc, đổi một bộ đồ mới, cầm một cây quạt đẹp. Có thể là bởi vì tướng mạo xinh đẹp, chỉ cần hơi sửa soạn một chút dung mạo liền tỏa sáng lạ thường, vừa thanh lãng vừa tuấn tú, giống như một người thủy tinh. Đây là mùa hoa ở thành Bắc Bình, bông liễu vài sợi phất phơ trong gió, giống như tuyết dịu dàng. Lúc Trình Phượng Đài đến lái xe đến đầu hẻm đón Thương Tế Nhụy, nhìn Thương Tế Nhụy mang theo nụ cười mỉm ngượng ngùng, chậm rãi từ đầu kia con hẻm đi tới, bước trong gió mát cùng bông liễu, rất giống một bài thơ hoặc là một bức họa —— “Mạch thượng thiếu niên nhà ai chân phong lưu” . Trình Phượng Đài không tự chủ được xuống xe, vịn cửa xe, mê mẩn nhìn Thương Tế Nhụy từ xa đến gần.
Thương Tế Nhụy bị hắn nhìn chòng chọc rất xấu hổ, đến gần nói: “Làm gì thế hả!”
Trình Phượng Đài cầm bả vai y, ái mộ nhìn y chăm chăm: “Ông chủ Thương tuấn tú thiếu niên lang, thật là xinh đẹp!”
Thương Tế Nhụy có chút đắc ý, lại có chút xấu hổ, nhẹ nhàng đung đưa đầu.
Bọn họ đến quán ăn, Nguyên Tiểu Địch ngồi ngay ngắn ở bàn chờ bọn họ. Không phải bọn họ đến chậm, là Nguyên Tiểu Địch đến sớm, lịch sự ngồi ở chỗ đó, lịch sự uống một ly trà, thật là một nho thương.
Nguyên Tiểu Địch trước kia lớn lên từ tầng lớp kép hát chót nhất, chịu ức hϊếp đã quen, đối với xuất thân ưu linh của mình vẫn luôn tự ti sâu đậm. Bất luận sau đó có nổi tiếng như thế nào, anh ta ở trước mặt người khác vẫn luôn đặc biệt khiêm tốn cẩn thận, dù là bây giờ theo nghiệp buôn bán, tính khí này cũng vẫn là vậy, thậm chí bởi vì nhún nhường lễ độ quá mức, ngược lại gây ra cho người ta một loại cảm giác lạnh băng băng khó mà thân cận. Anh ta sau khi tuổi tác lớn hơn chút liền lui khỏi ngành lê viên, mở một cửa tiệm tơ lụa. Nhập tơ lụa nguyên liệu vải thượng đẳng từ chỗ Trình Phượng Đài, bán cho các thái thái tiểu thư thượng lưu từng nghe hí của anh ta, vì vậy việc làm ăn rất được giá, rất tinh xảo, cũng rất rảnh rang. Có lúc khách hàng mời anh ta đến dự tiệc, tham gia chơi bài, thỉnh thoảng cũng mời anh ta lộ giọng một chút. Mỗi khi gặp phải chuyện như vậy, Nguyên Tiểu Địch trong lòng đều rất thương cảm, cảm thấy mình như thể suốt đời cũng thoát không khỏi thân phận mua vui cho người.
Thương Tế Nhụy vừa nhìn thấy Nguyên Tiểu Địch, chân đều có chút không động đậy nổi. Trình Phượng Đài đẩy lưng y bảo y ngồi xuống, vừa khách khí cùng Nguyên Tiểu Địch. Nguyên Tiểu Địch vừa nhìn thấy Thương Tế Nhụy cũng rất chú ý y, người hát hí bọn họ có loại khí chất đặc biệt, tư thái thanh tú hơn so với người thường, cử chỉ nước chảy mây trôi, thế nào cũng đều giống như đang phất thủy tụ, uốn ngón tay hoa, ánh mắt cũng tỏa sáng lấp lánh.
Nguyên Tiểu Địch nhìn Thương Tế Nhụy, mỉm cười hỏi: “Vị này là?”
Trình Phượng Đài liếc mắt nhìn Thương Tế Nhụy: “Vị này là một… người bạn thích nghe hí của tôi, Điền Tam Tâm. Luôn kêu muốn gặp mặt ngài, hôm nay thuận đường mang y tới. Ngài chớ trách.” Trình Phượng Đài tạm thời tách chữ trong tên Thương Tế Nhụy để tạo một cái tên mới. Thương Tế Nhụy trong lòng quẫn một chút, cái gì gọi là Điền Tam Tâm, thật khó nghe. Bên này chào hỏi cùng Nguyên Tiểu Địch, thần sắc vô cùng tự nhiên, nghĩ đến hẳn cũng thường xuyên mai danh ẩn tính, lừa gạt người khác đã quen.
(Thương Tế Nhụy: 商细蕊 trong chữ Tế(细)có bộ Điền (田),Nhụy hay Nhị 蕊 gồm bộ Thảo trên đầu (艹)và ba (tam) chữ Tâm (心))
Nguyên Tiểu Địch lại nghiêm túc nhìn Thương Tế Nhụy một cái, mới trò chuyện với Trình Phượng Đài chút chuyện trên phương diện làm ăn. Trình Phượng Đài liều mạng dẫn đề tài đến phương diện hí khúc, nhưng Nguyên Tiểu Địch tựa hồ không muốn nói, dù sao chỉ quan tâm năm nay có gấm mới kiểu gì dạng gì. Thương Tế Nhụy yên lặng ngồi ở bên cạnh, hơi đỏ mặt, có lòng như có suy nghĩ, nhìn lén Nguyên Tiểu Địch, thức ăn cũng không ăn. Trình Phượng Đài thấy y như vậy, vừa cảm thấy ghen, vừa cảm thấy buồn cười, dứt khoát không vòng vo nữa, nói thẳng: “Nguyên gia việc buôn bán làm tốt lắm, hí lại càng tốt hơn. Tôi nghe phần dẫn trước vở Ngọc Trâm ký Nguyên gia diễn năm đó, đọc lời thuật: ‘Trên người giá lạnh rồi’, thực sự cảm thấy trên người lạnh lẽo. Ngài thật đúng là thần! Thật có công phu! Còn có cái câu ‘Ông trời à’, ôi, không thể miêu tả nổi bằng lời.”
Thương Tế Nhụy quay đầu hung hăng trừng Trình Phượng Đài, lời bình luận này rõ ràng là y nói, bị Trình Phượng Đài đạo mất.
Nguyên Tiểu Địch kinh ngạc hỏi: “Nhị gia ngài cũng nghe hí ?” Cho dù ai nghe nói Trình Phượng Đài có nghe hí, cũng đều sẽ cảm thấy ngạc nhiên. Hắn cho tới nay là một người có mức độ Tây hóa rất sâu, không khác gì một phần tử đi nước ngoài mới vừa về nước.
Trình Phượng Đài khoát tay nói: “Ầy! Mới nhập môn, hiểu biết cạn, để ngài chê cười rồi.”
Nguyên Tiểu Địch nói: “Hai câu này của ngài không thể nói là cạn! Không nói dối ngài chứ, trong cả bộ Ngọc Trâm ký, tôi đắc ý nhất hai câu thoại này.”
Trình Phượng Đài cùng Thương Tế Nhụy rất nhanh trao đổi ánh nhìn, Thương Tế Nhụy trong mắt tràn đầy đắc ý, tựa như nói: Thấy em biết thưởng thức chưa, hay dở đều không chạy khỏi lỗ tai em. Trình Phượng Đài cười chúm chím liếc y một cái.
“Ngài hát tốt như vậy, lại lui về sớm quá. Thật là một tổn thất lớn cho lê viên.” Trình Phượng Đài đóng giả khách quen phòng vé cũng thật giống: “Làm cho chúng tôi đám khách quen phòng vé này ấy à, muốn no chút nhĩ phúc cũng không được nữa rồi.”
Nguyên Tiểu Địch liền nói thẹn không dám nhận: “Ngài cũng biết, ngày nay côn khúc không được hoan nghênh bằng trước kia rồi, tôi lại chỉ biết hát côn khúc. Lớn tuổi rồi, suy nghĩ rằng hay là tận dụng mối quan hệ ở kinh thành, đổi nghề làm chút buôn bán an ổn nuôi gia đình cho qua ngày.” Anh ta dừng một chút, thả chậm giọng mỉm cười nói: “Nhị gia nếu như thật sự thích nghe, tôi có thể tiến cử hai người cho ngài.”
Trình Phượng Đài không hiểu sao có loại dự cảm, len lén nhìn về phía Thương Tế Nhụy. Thương Tế Nhụy vào lúc Nguyên Tiểu Địch nói chuyện mắt không chớp.
Nguyên Tiểu Địch quả nhiên nói tiếp: “Người đầu tiên là đương kim đại danh đỉnh đỉnh Thương Tế Nhụy, ngài chắc chắn biết y.”
Trình Phượng Đài liền đoán anh ta sẽ nói Thương Tế Nhụy, quả nhiên ứng nghiệm, nhịn cười gật đầu nói: “Biết, tôi quá biết.”
Nguyên Tiểu Địch tự giễu cười giễu: “Cũng đúng thôi. Người không nghe hí cũng chẳng mấy người không biết y. Có điều những người mê hí chỉ biết là kinh hí của y tốt, không biết y là “côn loạn bất đáng” chân chính. Tôi may mắn từng nghe y hát vở Mẫu Đơn đình, hay, thật sự hay.”
Thương Tế Nhụy trợn to hai mắt sáng long lanh, bắt đầu hưng phấn.
Trình Phượng Đài cố ý dẫn anh ta khen thêm Thương Tế Nhụy đôi câu, nói: “Vở đó tôi cũng xem, không hiểu lắm, Nguyên gia nói cho tôi nghe chút đi?”
Nguyên Tiểu Địch nói: “Chỉ bằng kiến thức vừa rồi của Nhị gia không thể nào không hiểu. Hát không nói, chỉ nói một câu thuật kia: ‘Không tới Viên lâm, làm sao biết xuân sắc như vậy’, thật sự đọc lên một mảnh xuân quang sáng láng. Đoạn tạo la bào phía sau kia tôi thấy đều thừa thãi.” (tạo la bào: tên một khúc hát trong côn khúc) Anh ta nói đến lúc hăng say, lời nói có chút sắc bén, lập tức khéo léo vãn lại nói: “Cũng không phải dư thừa thực sự, câu thuật mà, vốn chính là để dẫn câu hát. Nhưng nếu đã đọc câu thuật hay, không cần hát, ý cảnh cũng toát ra rồi.”
Thương Tế Nhụy được anh ta khen mặt đỏ tới mang tai, mở quạt ra quạt hai cái. Nguyên Tiểu Địch thấy bức sơn thủy trên cây quạt kia, kinh ngạc hỏi: “Điền thiếu gia, vật này phải chăng là bút tích của Đỗ Minh Ông Đỗ đại nhân?”
Thương Tế Nhụy khép lại cây quạt hai tay đưa cho anh ta thưởng thức: ” Vâng. Là của ông ấy.” Đây là bút tích Đỗ Thất trộm từ nhà tặng cho y.
Nguyên Tiểu Địch nhận lấy nhìn kỹ, cảm thán đôi câu, vô cùng yêu thích. Côn khúc luôn luôn nổi tiếng bởi tao nhã, sau khi Nguyên Tiểu Địch thành danh, bên người từng có một nhóm văn nhân thượng lưu vây quanh, cũng giống Thương Tế Nhụy bây giờ. Nhưng mà anh ta yêu sách hiếu học hơn Thương Tế Nhụy, dưới sự hun đúc lâu dài của văn nhân, đã tạo nên một tình yêu đối với bút nghiên, biết viết biết vẽ, giống như một thư sinh.
Thương Tế Nhụy hôm nay bỗng nhiên lại biết xem sắc mặt, thẹn thùng nói: “Cây quạt này, ngài nếu như yêu thích hãy nhận lấy.”
Nguyên Tiểu Địch mới phát giác hành động của mình là ám chỉ quá mức rõ ràng, không khác gì đòi hỏi, vội vàng trả về trong tay Thương Tế Nhụy, ảo não cười nói: “Điền thiếu gia, Nguyên mỗ cũng không phải là ý đó. Bút tích của Đỗ đại nhân chỉ tặng cho bạn thân, nghĩ đến ngài hẳn cũng là được người tặng cho, tôi sao có thể nhận.”
So với Nguyên Tiểu Địch, Thương Tế Nhụy nào còn hiếm lạ gì Đỗ Minh Ông, sau khi bị cự tuyệt có chút lúng túng, lưỡi cà lăm nói không ra lời. Trình Phượng Đài trong đầu nghĩ đứa nhỏ này lên sân khấu giống như con chim hoàng oanh hót lanh lảnh, dưới sân khấu làm sao lại có thể xấu hổ thành cái bộ dạng này cơ chứ, cười nói: “Nguyên gia hãy nhận đi, người bạn nhỏ này của tôi không biết nói chuyện lắm, ngài nếu như không nhận ấy à, y lại trăn trở suốt mấy ngày đấy.” Nguyên Tiểu Địch vẫn kiên quyết từ chối, từ chối suốt mấy hiệp, mới ngượng ngùng nhận lấy. Trình Phượng Đài nhìn bọn họ một lớn một nhỏ gò má đều hơi đỏ, cảm thấy rất buồn cười, trong ấn tượng của hắn kép hát đại khái đều là những người giỏi giao thiệp, cởi mở, Nguyên Tiểu Địch cùng Thương Tế Nhụy đều là ngoại lệ.
Bị cây quạt quấy nhiễu một hồi, chủ đề Nguyên Tiểu Địch mới vừa nói liền gác lại, kéo đến câu chuyện văn thần cử nhân thế hệ trước của Đỗ Minh Ông bọn họ. Thương Tế Nhụy không thích nghe những thứ này, nhưng mà y lại ngại nói chuyện. Nguyên Tiểu Địch cùng Trình Phượng Đài nói xong chuyện phiếm bàn xong việc làm ăn, rượu và thức ăn cũng ăn xong hết rồi, nên cáo từ. Ba người cùng ra cửa, Nguyên Tiểu Địch lần nữa bày tỏ vạn phần cảm ơn đối với việc Thương Tế Nhụy tặng quạt, Thương Tế Nhụy rốt cuộc lấy dũng khí hỏi anh ta: “Hai người mà ngài muốn tiến cử kia, trừ Thương Tế Nhụy ra còn có một người là ai vậy?”
Nguyên Tiểu Địch ai nha một tiếng cười: “Ngài thật là có lòng. Tôi cũng suýt nữa thì quên, không ngờ ngài còn nhớ! Còn có một đứa trẻ của Vân Hỷ ban, tên là Tiểu Chu Tử. Nó còn chưa ra nghề, rất ít khi lên sân khấu hát.”
Thương Tế Nhụy trong lòng âm thầm ghi nhớ. Sau đó nhìn Nguyên Tiểu Địch lên xe kéo tay, đưa mắt nhìn anh ta đi xa mới trở về cùng Trình Phượng Đài. Ngồi vào trong xe, y lấy bàn tay lạnh như băng bụm mặt, ngâm nga. Trình Phượng Đài hỏi mặt em sao thế? Thương Tế Nhụy nói không sao, chỉ là cảm thấy có chút nóng.
“Bộ dáng Ông chủ Thương bây giờ giống như một đại cô nương.” Trình Phượng Đài lái chậm chậm xe, khinh thường nói: “Còn là một đại cô nương mắc bệnh mê giai, đáng vậy sao? Không phải chỉ là một Nguyên Tiểu Địch thôi sao? Tôi thấy chẳng đáng.”
Thương Tế Nhụy cao giọng nói: “Anh không biết Nguyên Tiểu Địch hát hay đến mức nào đâu! Người hát Kinh hí hay không ít, nhưng côn khúc chỉ có một Nguyên Tiểu Địch!” Y tiếp tục ngâm nga: “Anh ấy đã giỏi như vậy, còn khen em giỏi. Ôi! ! ! Nhị gia! Ông chủ Nguyên anh ấy khen em khen em!”
Trình Phượng Đài dành ra một cái tay sờ sờ tóc y, cười nói: “Vậy em cũng không thể lừa gạt anh ta được, xấu hổ đến vậy sao? Tồn tại trong cùng một thành Bắc Bình, sau này gặp nhau đâu đó trên bàn bài, tôi xem em định giải thích thế nào.”
Thương Tế Nhụy nói: “Em không có gạt anh ấy. Em cũng không nói em không phải Thương Tế Nhụy, em có nói gì đâu. Là anh gạt anh ấy, anh gạt anh ấy rằng em tên là Điền Tam Tâm ——tên gì mà khó nghe.”
Trình Phượng Đài gật đầu một cái: “Được rồi, vẫn là tôi sai. Lần sau tôi sẽ vạch trần kính vạn hoa của em với anh ấy!”
Thương Tế Nhụy không để ý tới hắn, quay một đoạn cửa kính xuống hóng gió bắt đầu hát hí, chính là hát đoạn thoại mà Nguyên Tiểu Địch khen không ngớt kia—— “Không tới Viên lâm, làm sao biết xuân sắc như vậy” . Giọng điệu kéo thật dài, mười chữ mỗi chữ một phen cao thấp, ý vị riêng. Cổ họng của y cao như vậy, giọng hát bay ra từ trong cửa sổ, khiến cho người trên đường đều quay đầu lại tìm xem Đỗ Lệ Nương từ nơi nào tới. Ngay sau đó là khúc tạo la bào phía sau —— “Thì ra muôn hồng nghìn tía nở rộ, cũng như vậy, thay cho tường đổ vườn tàn…” Ngoài cửa xe nhìn là những mảng tường cũ miên man của cổ trạch Bắc Bình, đang lúc đó dường như có bóng xanh mướt của cây hòe vụt qua. Những cảnh đường phố cổ xưa đơn điệu này, phối hợp với cuộc dạo vườn của Thương Tế Nhụy, có một loại cảm giác mâu thuẫn vi diệu, lại rất hài hòa. Cảm khái trong lòng Trình Phượng Đài khó mà diễn tả bằng lời. Ở cùng với Thương Tế Nhụy thường xuyên sẽ có nỗi niềm cảm khái kim cổ lần lượt thay nhau, cuộc bể dâu chớp qua trong nháy mắt như vậy. Thương Tế Nhụy dường như có một loại ma lực, giống như con yêu quái biển trong thần thoại Hy Lạp kia. Y chỉ cần mở miệng một cái, cả thế giới này liền biến thành một dạng khác, mạ lên một chút xíu sắc màu, hoặc là phai đi một chút xíu sắc màu —— toàn bộ đều dựa vào hí mà y hát là hí gì. Người rơi vào thế giới ma thuật này không thể thoát khỏi sự mê hoặc.
Trình Phượng Đài cũng bắt đầu ngâm nga theo điệu hát của Thương Tế Nhụy.
(1) Mẫu Đơn đình do nhà soạn kịch nổi tiếng thời kỳ nhà Minh là Thang Hiển Tổ viết năm 1598 mà đến nay vẫn được người Trung Hoa nghiên cứu dựng lại và diễn xướng. Kể về câu chuyện tình lãng mạn triền miên sinh sinh tử tử của đôi trai gái: Đỗ Lệ Nương và Liễu Mộng Mai.
Đỗ Lệ Nương là con gái độc nhất của quan thái thú Nam An là Đỗ Bảo. Nàng vừa xinh đẹp lại rất đỗi thông minh nên vợ chồng Đỗ Bảo rất yêu quý, mời thầy học là Trần Tối Lương về nhà dạy cho con gái về Kinh Thi. Nhà họ Đỗ giáo dục con gái rất nghiêm, suốt ngày Đỗ Lệ Nương chưa bao giờ dám rời khỏi khuê phòng nửa bước. A hoàn là Hương Xuân cũng theo nàng cùng học, nhưng Hương Xuân rất ham chơi, thường trốn học đi ra ngoài.Một hôm, Hương Xuân rủ Lệ Nương ra vườn hoa sau nhà chơi. Sắc xuân khắp vườn đã khiến cho Lệ Nương vô cùng say đắm. Khi vào đình Mẫu đơn trong vườn nghỉ chân, Lệ Nương chợp mắt ngủ thϊếp đi, mộng thấy mình gặp một chàng thư sinh tài mạo là Liễu Mộng Mai trò chuyện tâm tình rất tương đắc. Từ đó Lệ Nương về nhà ốm tương tư Liễu Mộng Mai. Bệnh tương tư càng ngày càng nặng, Lệ Nương vẽ một bức chân dung tự hoạ và đề một bài thơ bảo Xuân Hương đem giấu dưới ngọn giả sơn rồi lặng lẽ qua đời. Vợ chồng Đỗ Bảo theo di nguyện của con, an táng nàng dưới một gốc mai ở vườn hoa sau nhà. Sau đó Đỗ Bảo được thăng làm An phủ sứ ở Hoài Dương, trước khi đi ông cho dựng Mai Hoa quán ở trong vườn rồi sai Trần Tối Lương và Thạch Đạo Cô ở lại trông nom phần mộ của Lệ Nương. (Nguồn: Wiki)
Liễu Mộng Mai lên kinh đi thi, trên đường qua Nam An bị cảm ốm phải xin ở nhờ Mai Hoa quán. Một hôm Mộng Mai ra sau vườn dạo chơi nhặt được bức chân dung tự hoạ và bài thơ trước khi chết của Lệ Nương, liền đem về phòng. Mộng Mai vừa thấy chân dung Lệ Nương tưởng như mình đã quen biết khi nào, tình cảm vô cùng sâu nặng, cũng đề một bài thơ lên tranh, rồi suốt ngày ngồi bên bức vẽ, “cùng chơi, cùng hỏi, cùng gọi, cùng đùa”. Cảm tấm chân tình của Liễu Mộng Mai, Lệ Nương đã ra khỏi bức tranh và hẹn hò ước nguyện với người tình trong mộng năm xưa. Sau khi biết căn nguyên câu chuyện, Mộng Mai năn nỉ Thạch Đạo Cô cho mở nắp quan tài lên. Lệ Nương sống lại, hai người nên duyên vợ chồng, cùng với Thạch Đạo Cô lên kinh ứng thí. Trần Tối Lương phát hiện ra bèn đến Hoài Dương tố cáo với Đỗ Bảo tội trộm mộ của Liễu Mộng Mai.
Liễu Mộng Mai ứng thí ở Lâm An (tức Hàng Châu) thì gặp lúc quân Kim vào cướp phá. Việc yết bảng bị đình lại, Hoài Dương bị vây hãm. Lệ Nương liền bảo Mộng Mai đến Hoài Dương dò la tin tức cha mẹ. Mộng Mai đến Hoài Dương cũng vừa lúc quân Kim lui binh. Nhưng Đỗ Bảo cho rằng Liễu Mộng Mai là kẻ dối trá nên đánh cho một trận rồi áp giải về Lâm An thẩm vấn. Ngày yết bảng, Liễu Mộng Mai đỗ trạng nguyên, nhưng Đỗ Bảo cố chấp vẫn không chịu nhìn mặt cả con gái lẫn con rể. Đến khi Hoàng thượng hỏi rõ câu chuyện liền giáng chỉ cho nhà họ Đỗ: “Cha con vợ chồng nhận nhau, về phủ đệ thành thân”. Cuối cùng cả gia đình đoàn viên sum họp, Đỗ Lệ Nương và Liễu Mộng Mai sống với nhau vô cùng hạnh phúc.
(2)Ngọc Trâm ký là truyền kỳ ( hí kịch ) do tác gia Cao Liêm thời nhà Minh sáng tác. Vở kịch viết về câu chuyện đạo cô Trần Diệu Thường cùng thư sinh Phan Tất Chính phá tan lễ giáo phong kiến cùng ước thúc thanh quy của đạo pháp mà mến nhau, kết hợp. Kim Ngột Thuật xâm lược phía nam, cô gái Trần Kiều Liên trong lúc chạy loạn thất lạc mẹ, vào Kim Lăng nữ trinh quan làm đạo sĩ, pháp danh Diệu Thường. Phủ doãn Trương Vu Hồ nhậm chức đi ngang qua, từng trêu ghẹo Diệu Thường, nhưng bị từ chối. Cháu của nữ trinh quan chủ Phan Pháp Thành là Phan Tất Chính thi hội rớt, cũng đến nữ trinh quan. Trần, Phan hai người sau mấy phen bàn về trà, gảy đàn, làm thơ, rốt cục tự mình kết hợp. Chuyện bị quan chủ phát giác, liền bức Tất Chính đi thi. Ngày lên đường, Diệu Thường đuổi tới bờ sông, mướn thuyền vượt qua, khóc lóc từ biệt người tình. Sau này Phan sinh đăng đệ đắc quan, đi đến Kim Lăng, cưới vợ Diệu Thường trở về nhà đoàn tụ.