Đại Bá Chủ

Chương 7: Luận đạo

“Không nói với ngươi nữa, hiện giờ mạch tượng của ta bị phong bế, muốn mượn động phủ này của ngươi để đả thông?” Thiếu nữ hoà hoãn nói.

“Được chứ, cứ tự nhiên” Nguyễn Thiên sảng khoái đáp ứng. “Mà phải mất bao lâu thời gian a?” Thiếu niên thắc mắc vấn.

“Chậm thì hai ba tháng, nhanh chắc một tháng hơn là được á!” Đình Nhã cảm thán trả lời.

“Lâu như vậy!”

“Ngươi sợ ta vài tháng này, tiêu hoá hết linh khí nơi đây à?” Đình Nhã giận dỗi lời nói. “Nàng có dùng cả đời cũng ngốn không hết, chỉ là... Sau khi đả thông mạch tượng, nàng sẽ làm gì?” Nguyễn Thiên hỏi.

Nàng hướng Nguyễn Thiên nói: “Ta sẽ rời đi.”

“Sao... Rời đi nhanh vậy a... Nàng...?”

Đình Nhã chen ngang lời nói của Nguyễn Thiên: “Tiểu tử ngươi đây là, muốn ta ở lại đây luôn sao?”, “Ừm” Nguyễn Thiên nghiêm túc nói.

Nàng quay đi, mà nói: “Ta vẫn sẽ đi, nhưng là chậm thêm hai ba tháng, để hồi phục chiến lực mà thôi.”

Đình Nhã quay lại nói: “Trong khoảng thời gian này, ngoài việc đả thông mạch tượng, ta sẽ giúp ngươi tu hành, đảm bảo hai tháng ngươi sẽ đến nguyên thần cảnh.”

“Ý nàng là ngưng thần á?” Nguyễn Thiên thắc mắc hỏi.

“Chập, quên mất hệ thống tu luyện của hai ta khác nhau!” Đình Nhã đưa tay lên trán, cảm thán nói.

“Thiết nghĩ, hệ thống tuy khác, nhưng chỉ cần thiên địa pháp tắc không bài trừ, thì vẫn tu luyện được a” Nguyễn Thiên nói.

“Cũng đúng!” Đình Nhã gật gù nói.

“Vậy nàng sẽ tu luyện hệ thống của giới ta, hay hệ thống của giới nàng đây?” Nguyễn Thiên hỏi. “Cái này... Ta sao cũng được, còn ngươi?” Đình Nhã hỏi lại.

“Ta... A, tu hệ thống của nàng thử xem!’

“Ngươi chắc chứ, nếu chọn đạo của ta, ngươi phải tu luyện lại từ đầu đấy!” Đình Nhã nói. “Không sao, ta chỉ đang ở cảnh giới đầu tiên thôi mà!” Nguyễn Thiên gãi đầu, ngượng ngùng nói. Đình Nhã thở dài, nói: “Ta có một ý nghĩ.”

“Nói nghe thử!” Nguyễn Thiên hướng Đình Nhã nói.

“Ta muốn xem thử hệ thống tu luyện của giới ngươi, so với hệ thống tu luyện của Đế Hưng, cái nào tốt hơn. Rồi mới quyết định sẽ tu hành theo cái nào.”

“Ừm, vậy nàng nói về hệ thống tu luyện của Đế Hưng trước đi” Nguyễn Thiên ngồi vào bàn đưa tay hướng đối diện, mời Đình Nhã ngồi xuống, mà nói.

Nàng ngồi xuống, hướng đối diện Nguyễn Thiên. Hắn lấy ấm trà trên bàn, dùng linh lực làm nóng nước trà bên trong, rồi rót ra chén, hướng Đình Nhã mời. Đình Nhã cầm lên chén trà, đưa lên miệng thổi qua, xong một hơi uống cạn, rồi nói: “Hệ thống tu luyện của Đế Hưng ta, chính là nuôi dưỡng thánh thai để thành đạo.”

“Thánh thai?”

“Hệ thống tu luyện Đế Hưng, được chia làm 12 cảnh giới. Trúc cơ, tụ khí, linh hải, nguyên thần là 4 cảnh giới đầu tiên, để bắt đầu nhập đạo. Ngưng linh, hư linh, thức tỉnh và vấn đỉnh, đây là giai đoạn nuôi dưỡng thánh thai. Ngưng linh, là tạo ra thánh thai. Hư linh, là thánh thai thành hình, thức tỉnh là thánh thai đã mở mắt, có thể thoát khỏi thể nội, cùng chủ thân tác chiến. Vấn đỉnh, là giai đoạn gọt rũa thánh thai bằng cách độ kiếp.

Ở 4 cảnh giới này, thánh thai được gọi là nguyên linh. Nguyên linh sau khi được gọt rửa, đại thành được gọi là thánh. Lúc này ta sẽ đem thánh hợp nhất với nguyên thần của bản thân, bước vào cảnh giới hư thánh. Ở giới ta, hư thánh là cảnh giới cường giả, người ở cảnh giới này được gọi là thánh giả.

Cảnh giới tiếp theo, chuẩn thánh, ta phải để thánh của bản thân nuốt 9 tầng của linh hải, đây là giai đoạn vô cùng gian nan, bởi linh hải là nơi nuôi dưỡng nguyên linh đến khi thành thánh, trong quá trình nuôi dưỡng đằng đẵng, làm cho linh hải vô cùng cứng cáp.

Khi thánh thành công cắn nuốt 9 tầng linh hải, thánh sẽ chịu thiên kiếp, một lần nữa gọt rũa đến đại thành trở thành chân thánh. Lúc bấy giờ thánh của bản thân sẽ lột xác, trở thành nhục thân mới, sinh ra nguyên thần mới cho ta.

Cảnh giới cao nhất của Đế Hưng là đại thánh cảnh, cảnh giới này từ Khai Nguyên Kỷ đến nay, chỉ có duy nhất một người đặt chân đến. Người này cũng là người tạo ra hệ thống tu luyện ở giới ta, gọi là Thiên Nguyên Thánh Chủ.”

“Ừm, nghĩa là dùng linh lực tạo ra thánh thai, rồi nuôi lớn nó đến khi trưởng thành. Dùng thánh thai khi lớn làm nhục thân mới, nó sẽ thai nghén ra nguyên thần mới cho ta!” Nguyễn Thiên cảm khái nói.

“Không sai.”

“Nhưng để tu luyện hệ thống Đế Hưng, tu sĩ còn cần có thể chất đặc thù” Đình Nhã nói. “Thể chất đặc thù?” Nguyễn Thiên thắc mắc hỏi.

“Ở Đế Hưng, người thường không có thể chất đặc thù, khi tu luyện sẽ mất rất nhiều thời gian ở trúc cơ cảnh. Thường là 4 đến 5 năm gì đó, để cấu trúc cơ thể đạt yêu cầu tu luyện!” Đình Nhã nói.

“Vậy thể chất đặc thù mà nàng nói là gì?” Nguyễn Thiên hỏi.

“Thể chất đặc thù, tức là thể chất thích hợp để tu luyện. Đế Hưng có 4 thể chất đặc thù, âm dương chi thể, tinh cực thánh thể, nguyên linh chi thể, bất nhiễm chi thể.

Trong đó, âm dương chi thể là thể chất cực kì hiếm thấy, cũng như được coi là mạnh nhất cổ kim. Đại thánh cảnh, Thiên Nguyên Thánh Chủ, chính là thể chất này. Thể chất này có ngộ tính vô cùng cao, từ lúc sinh ra đã có vô thượng pháp, âm dương chí cực đạo. Nên biết âm dương là bản nguyên thiên địa, vạn vật từ âm dương mà sinh, vạn vật từ âm dương mà thịnh, vạn vật từ âm dương mà suy.

Tinh cực thánh thể, là thể chất đã thất truyền, trên đời này đã không còn nghe nói ai có thể chất này. Người sinh ra có thể chất này, từ nhỏ đã có thể luyện hoá tinh nguyên linh khí. Linh khí trong thiên địa, nồng đậm nhất là trong các ngôi sao. Tuy nhiên, muốn hấp thu và luyện hoá chúng, chỉ có tu giả vấn đỉnh cảnh mới làm được. Mà họ từ lúc sinh ra đã có khả năng này, thử hỏi tốc độ tu luyện sẽ khủng khϊếp như nào.”

“Cũng quá nghịch thiên rồi!” Nguyễn Thiên cảm khái.

“Nguyên linh chi thể, là người từ lúc sinh ra đã sở hữu cơ thể nguyên linh, tức là nhục thân của họ chính là nguyên linh. Họ không cần mở linh hải, vì họ có thể trục tiếp hấp thu linh khí bằng nhục thân. Có thể hiểu, người có thể chất này, từ lúc còn trong bụng mẹ đã là nguyên linh cảnh viên mãn.

Bất nhiễm chi thể, đây được coi là thể chất bình thường nhất trong 4 thể chất đặc thù. Thể chất này không có ngộ tính cao, không có khả năng luyện hoá tinh nguyên linh khí từ bé, càng không có nhục thân nguyên linh. Nhưng lại bách độc bất xâm, nhục thân cường tráng, có thể trực tiếp mở linh hải khi bắt đầu tu luyện, và bỏ qua trúc cơ.”

“Vậy nàng thể chất gì a?” Nguyễn Thiên hướng Đình Nhã hỏi.

“Âm dương chi thể.”

“Hả... Vậy chẳng phải nói...!”

“Tuy ta là âm dương chi thể, nhưng chuyện này trên dưới cả nhà, ngoài ta ra, chỉ có cha và mẹ ta biết” Đình Nhã cắt ngang lời nói của Nguyễn Thiên.

“Vậy... Nàng có âm dương pháp gì đó từ lúc sinh ra phải không?” Nguyễn Thiên ánh mắt chờ mong, hướng Đình Nhã hỏi. “Ừ, là âm dương chí cực đạo pháp” nàng nhìn Nguyễn Thiên ánh mắt có chút ngờ nghệch. “Âm dương chí cực đạo pháp, nàng dạy ta được không?” Nguyễn Thiên hớn hở hỏi. “Cái... Cái này...” Đình Nhã, tay gãi thái dương, nghiêng đầu khó sử. Nhìn nàng bộ dáng, Nguyễn Thiên không còn hớn hở, thay vào đó là vẻ sốt sắng trên gương mặt của hắn.

“Không phải ta không muốn dạy cho ngươi. Mà... Âm dương pháp này của ta, là bí pháp sơ khai. Không có pháp ngôn, phù văn cụ thể, cũng như không thể dựa trên quan sát, mà tạo ra phù văn để có thể dạy cho ngươi” Đình Nhã nói.

“Vậy ta không thể học sao?” Nguyễn Thiên thoáng có thất vọng nói. “Có thể” Đình Nhã đặt ngón tay lên chén trà của nàng, tạo ra tiếng động mà nói. “Thật sao?” Nguyễn Thiên chú ý nàng, ngón tay trên chiếc chén, hỏi.

“Có thể, ngươi có thể học được, nhưng phải dựa vào ngộ tính của ngươi. Từ việc quan sát âm dương chi nguyên của ta, mà ngộ ra âm dương pháp” Đình Nhã vừa dùng ngón tay xoay đều nước trà trong chén, tạo thành hai dòng âm dương lưu chuyển bên trong, vừa nói.

Nguyễn Thiên ngạc nhiên khi nhìn thấy hai luồng âm dương đang lưu chuyển bên trong chén trà, mà hỏi: “Đây là âm dương chi nguyên sao? Ta sẽ ngộ ra được âm dương pháp từ nó à?”

“Ừ, quan trọng là ở ngộ tính của ngươi. Âm dương pháp này, không giống như pháp thuật thông thường. Nó không dùng đến linh khí, ở bất kì đâu, ngươi cũng có thể vận chuyển âm dương” Đình Nhã nói. Tay nâng chén trà đó đưa cho Nguyễn Thiên.

“Bá thật đấy!” Nguyễn Thiên cảm thán nói.

Cầm lấy chén trà của Đình Nhã, Nguyễn Thiên nhìn vào hai luồng âm dương, mờ ảo, lúc giống như nước, lúc lại giống như khí. Mà hắn thắc mắc: “Ta nhìn ra được sự bất phàm của nó, nhưng lại không biết nên bắt đầu từ đâu để tìm hiểu!”

“Âm dương chi nguyên bên trong chén chỉ duy trì được hai ngày. Sau khi nó tan biến, ta sẽ lại tạo ra cái khác cho ngươi quan sát. Còn về việc ngươi không biết bắt đầu từ đâu, thì thật ra ta cũng không biết phải bắt đầu từ đâu để tìm hiểu pháp này. Chỉ vì ta sinh ra đã có, chứ chưa từng trải qua giai đoạn cảm ngộ. Mà trong quá trình cảm ngộ sau đấy, có nhiều thành tựu cũng không biết đường mà chỉ cho ngươi!” Đình Nhã thở dài, cảm khái nói.

“Ừm, ta hiểu mà, có học được hay không pháp này, đều tùy thuộc vào ngộ tính của bản thân ta.”

“Có điều ta phải nói trước cho ngươi, âm dương pháp mà ngươi nếu có ngộ ra chưa chắc sẽ giống ta.”

“Sao a, thế âm dương pháp của nàng là gì?”

“Âm dương pháp mà ta nắm giữ, là lưu chuyển. Như ngươi đang nhìn thấy đấy.”

“Lưu chuyển?” Nguyễn Thiên ngờ vực.

“Lưu chuyển, ở đây là ta gọi nó vậy. Âm dương pháp của ta có thể lưu chuyển công kích của người khác, dùng để dời non lấp bể cũng được. Mà cái ta sâu sắc ngộ ra chính là dùng âm dương chi khí, quấn lấy công kích của đối thủ mà cưỡng chế điều khiển nó.” Đình Nhã giải thích.

“Không phải nàng nói ngoài cha mẹ ra không ai biết nàng là âm dương chi thể sao, sao nàng lại ngộ ra được âm dương pháp như vậy?” Nguyễn Thiên đặt chén trà trên tay xuống, hướng Đình Nhã hỏi.

“Còn phải hỏi, những người từng nhìn thấy ta dùng âm dương chi pháp mộ đều xanh cỏ cả rồi!” Đình Nhã cười nói.

“A... Vậy ta...!” Nguyễn Thiên làm bộ sợ hãi tránh ra xa nàng. “Ngươi thôi cái trò dở hơi đó đi, ta là ta dạy ngươi đấy!” Đình Nhã nhìn hắn trò hề, mà lười biếng nói.

“Cách nhìn mỗi người về một sự vật, sự việc có thể khác nhau. Dẫn đến cảm ngộ mỗi người về sự vật, sự việc ấy cũng sẽ khác nhau” Đình Nhã nói.

Nguyễn Thiên gật đầu, tay nâng chén trà, ánh mắt nhìn ngắm âm dương chi nguyên bên trong.

Hai tháng sau.

Tại bên ngoài động phủ của Nguyễn Thiên, Đình Nhã cùng hắn, hai người thiền. Trên tảng đá lớn giữa hồ thác, Đình Nhã chầm chậm mở mắt. Nhìn ngắm lòng bàn tay của mình, nàng nghĩ: “Sau khi đả thông mạch tượng, ta đem nguyên linh phân giải, tu luyện Hồng Mông pháp đến cảnh giới sanh liên. Nhưng vẫn cảm thấy bản thân không bằng trước kia, ngưng linh cảnh.

Chắc do ta chỉ dựa vào chuyển hoá nguyên linh, thay đổi đạo của bản thân, nên từ Đế Hưng pháp sang Hồng Mông pháp có chút khiếm khuyết cũng là việc thường tình.”

Nàng nhìn sang bên cạnh, Nguyễn Thiên tư thế thiền. “Mình tu Hồng Mông pháp cũng hai tháng rồi, có lẽ nên bắt đầu nghiên cứu phù văn của giới này rồi” Đình Nhã nói.

Hai tháng trước...

“Vậy còn hệ thống tu luyện của giới ngươi?” Đình Nhã hỏi. Nguyễn Thiên dứt ánh mắt khỏi chén trà trên tay, hướng nàng nói: “Ở Cửu Thiên, mỗi tộc đều có cho mình một hệ thống riêng để tu luyện. Mà hệ thống tu luyện của nhân tộc được một vị đế giả, Hồng Mông Đế, hơn bốn trăm vạn năm trước, trước khi mà giới này bắt đầu biết đến lịch sáng tạo nên.

Hồng Mông pháp, trước đây được chia làm 14 cảnh giới. Nay là bất phàm cảnh, giống như trúc cơ, cấu trúc lại cơ thể, đồng thời kết hợp với cảm ngộ chi tâm (nhập định - thiền hoặc bằng phương thức nào đó để tinh thần trở nên thư thái). Ở bất phàm cảnh linh lực không thể bảo lưu lâu dài trong cơ thể, chỉ có thể tồn tại trong chốc lát rồi sẽ biến mất, nên ở cảnh giới này tu sĩ vẫn chưa thể lăng không hay phi hành. Đến khi thân (nhục thân), thần (tinh thần), khí (khí huyết trong cơ thể) trở nên viên mãn thì tu sĩ coi như viên mãn bất phàm cảnh, tu sĩ mới miễn cưỡng có thể lăng không.

Ngưng thần cảnh, dùng linh lực khai khiếu, thai nghén ra nguyên thần đặt trong đầu lâu bên trong giữa mi tâm tu sĩ. Nguyên thần sau khi được hình thành sẽ giúp tu sĩ có thêm sự giao cảm với thiên địa linh khí, bấy giờ tu sĩ đã có thể luyện hoá được thiên địa linh khí thành linh lực để bồi dưỡng nguyên thần, đồng thời cơ thể tu sĩ đã có thể bảo lưu linh lực trong khí huyết.

Nhưng điều quan trọng nhất là, nguyên thần sẽ gắn bó chặt chẽ với tính mạng của tu sĩ (thần tử đạo tiêu). Những vết thương dù không đánh vào nguyên thần, nhưng lại là chí mạng ví dụ như bị đánh xuyên tim, nguyên thần của tu sĩ cũng sẽ tản loạn mà biến tán, vẫn sẽ dẫn đến cái chết của tu sĩ như thường.

Luyện tịch cảnh, nguyên thần của mỗi tu sĩ đều thai nghén ra một loại cốt văn riêng. Cốt văn chính là phù văn, một loại chữ viết lưu lại bí thuật (thần thông) của tu sĩ. Vì cốt văn mỗi tu sĩ là khác nhau vì vậy sẽ không ai hiểu của ai. Điều này có thể hiểu là bất đồng ngôn ngữ trong giới tu luyện, vì thế Hồng Mông Đế đã đặt ra cảnh giới này, lấy cốt văn của ông làm chính, để mọi tu sĩ khi tu theo hệ thống của ông học theo, rồi cho nguyên thần thai nghén ra phù văn tương tự ông.

Phù văn giống nhau, giống như việc ta cùng hiểu một loại ngôn ngữ, các bí thuật và thần thông sẽ được truyền thừa không đứt đoạn. Vì đây chỉ là cảnh giới nghiên cứu cốt văn, nên nó sẽ không ảnh hưởng đến tu vi của tu sĩ, nói cách khác tuy nó được đặt là một cảnh giới, nhưng thật chất lại không có sự tăng tiến cho tu sĩ về mặt thực lực, nên nếu muốn dốt hoặc sau này tìm hiểu sâu thì có thể bỏ qua đi đến cảnh giới tiếp theo.

Ngưng chủng cảnh, sau khi tích trữ được đủ không thể tích trữ thêm nữa linh lực có trong khí huyết, tu sĩ sẽ đem toàn bộ linh lực nén lại ở hạ đan điền, hình thành một hạt giống nơi đó. Do linh lực toàn bộ nén hết lại, tu sĩ bấy giờ với bất phàm cũng không khác gì mấy, nhưng tu sĩ vẫn có thể luyện hoá và bảo lưu thêm linh lực vào khí huyết để sử dụng. Còn linh lực trong hạt giống, tu sĩ chỉ có thể liên tục cấp linh lực để nuôi dưỡng nó, chứ không thể sử dụng linh lực có trong nó. Đây là một quá trình gian nan ngay từ lúc ngưng chủng, đến nuôi dưỡng để chủng nảy mầm.

Sanh liên cảnh, khổ tận cam lai, sau khi đạo chủng nảy mầm cũng chính là lúc tu sĩ một thân tu vi tăng mạnh. Đạo chủng hoá thành đoá liên hoa đặt nơi hạ đan điền của tu sĩ, liên hoa của mỗi tu sĩ sẽ tùy theo quá trình ngưng kết đạo chủng, mà có hình dáng màu sắc khác nhau.

Nhưng công dụng của liên hoa chỉ có một, bảo lưu linh lực của tu sĩ. Nếu như trước đây tu sĩ dung nhập linh lực vào cơ thể đến khi lấp đầy khí huyết, sẽ không tiếp tục dung nhập được nữa. Thì giờ đây chỗ linh lực đó sẽ được đưa đến liên hoa, liên hoa sẽ tinh cất toàn bộ chỗ linh lực đó thành phấn hoa (mỗi một phấn hoa tương đương với một thân linh lực trước đây của tu sĩ), mà liên hoa giới hạn sẽ tinh cất được da chín ngàn phấn hoa.

Khi cần sử dụng linh lực, tu sĩ chỉ việc thoi động liên hoa, phấn hoa từ liên hoa sẽ đi vào khí huyết, chạy khắp cơ thể tu sĩ ngay lập tức, linh lực của tu sĩ bộc bạch sẽ gấp những cảnh giới trước đây tùy theo số phấn hoa của tu sĩ. Tức là nếu số liên hoa của tu sĩ có hai, linh lực tu sĩ bộc bạch ở sanh liên cảnh sẽ gấp đôi trước đây. Nếu liên hoa tu sĩ có một trăm phấn hoa, thì linh lực tu sĩ bộc bạch sẽ gấp một trăm lần trước đây. Mà giới hạn số liên hoa tu sĩ có thể tinh cất ra là chín ngàn, tức là khi tu sĩ có chín ngàn phấn hoa, tu sĩ sẽ có sức mạnh gấp chín ngàn lần trước đây.

Thần hoả cảnh, trong thiên địa này không chỉ tồn tại linh khí, mà còn có một khí gọi là chân nguyên. Linh khí thì tồn tại gần như mọi ngóc ngách trên thế giới, nhưng chân nguyên chỉ tồn tại trong thiên kiếp, lại tồn tại vô cùng phồn thịnh.

Tuy so với linh lực, chân nguyên kém hơn về uy lực, bởi khi linh khí được chuyển hoá thành linh lực, khi được tu sĩ đánh ra sẽ dẫn đến cộng minh với linh khí làm cho sức phá huỷ tăng cao. Nhưng chân nguyên lại có tác dụng to lớn trong việc gọt rũa nhục thân và nguyên thần, mà điều này linh khí hay linh lực đều không sánh bằng một phần mười.

Chân nguyên và linh lực vốn có thể chuyển hoá qua lại cho nhau, nhưng ở sanh liên cảnh lại không thể làm được. Mà thần hoả cảnh chính là cầu nối giúp tu sĩ làm được điều đó, đem chín ngàn phấn hoa thiêu đốt liên hoa bên trong thiên kiếp, tu sĩ sẽ thấp lên được thần hoả. Thần hoả đặt giữa lòng ngực, có thần hoả làm dẫn, tu sĩ sẽ luyện hoá được linh lực thành chân nguyên và ngược lại rồi bảo lưu. Đồng thời ở cảnh giới này kinh mạch của tu sĩ sẽ được khai thông, kinh mạch chính là con đường để thần hoả vận chuyển chân nguyên đi khắp cơ thể để tu sĩ sử dụng.

Chân ngã cảnh, đây cũng chính là cảnh giới huyền diệu khó lí giải nhất trong hệ thống tu luyện của Hồng Mông Đế. Dùng thần hoả đốt nguyên thần hình thành chân ngã, chân ngã là bản ngã của tu sĩ, chân ngã tại thân, nếu tu sĩ chết đi nguyên thần tản biến, mà còn sót lại thân thể thì có thể hồi sinh tu sĩ đó theo một cách nào đó.

Thần kiếp cảnh, như đã nói chân nguyên có tác dụng lớn trong việc gọt rũa hình thần, mà chân nguyên có nhiều nhất là trong thiên kiếp, vì vậy việc độ kiếp sẽ giúp tu sĩ đề thăng việc gọt rũa hình thần. Thế nên mới có cảnh giới thần kiếp này, thần kiếp được chia làm chín trọng, mỗi một trọng tương đương với một lần độ kiếp. Uy lực của lôi kiếp sẽ theo trọng của thần kiếp mà tăng lên. Thần kiếp nhị trọng thì phải độ hai tầng thiên kiếp, tương tự đến thần kiếp cửu trọng tương ứng phải độ chín tầng thiên kiếp.

Gông xiềng cảnh, hay còn gọi là xích thần hay thần tôn. Thần kiếp cửu trọng sau khi thành công độ qua thiên kiếp thứ mười sẽ nhìn thấy trường sinh lộ, nhưng khi ấy thiên đạo sẽ buông xuống chín sợi xích sắt khoá chặt lại tu sĩ trên con đường trường sinh. Để vấn nhập trường sinh, tu sĩ buộc phải phá đi chín sợi xích sắt trên cảnh giới. Tu sĩ vừa nhập gông xiềng cảnh gọi là xích thần, tu sĩ phá được một sợi xích sắt trở lên gọi là thần tôn, đồng thời khi phá được một sợi xích sắt tu sĩ sẽ mở ra được vực (lĩnh vực của bản thân).

Trường sinh cảnh, thời khắc tu sĩ gông xiềng phá được sợi xích sắt thứ chín cũng chính là lúc tu sĩ nhập trường sinh. Như tên của cảnh giới, trường sinh là cảnh giới hợp với đạo, tu sĩ ở cảnh giới này thọ mệnh gắn liền với thiên địa, thiên địa chưa tàn thọ chưa tận, chỉ có tu sĩ trường sinh đánh nhau mà chết, không có tu sĩ trường sinh nào chết thọ. Ngoài ra trường sinh tu sĩ hay còn gọi là trường sinh giả, có thể chưởng khống lực lượng thiên địa trong một phạm vi nhất định.

Chí tôn cảnh, cổ nhân có câu đạo của mình là đường mình đi, việc bước lên con đường trường sinh chỉ là một bước dừng chân để tu sĩ cảm ngộ sâu sắc đạo của bản thân, để suy diễn ra con đường của riêng mình. Sau khi suy diễn ra được con đường của mình, tu sĩ sẽ phải độ thiên kiếp để thoát khỏi trường sinh lộ, chính thức bước lên con đường của riêng mình thành đạo chí tôn.

Chí tôn chân đạp đại lộ tinh quang mà đi, tinh quang ở đây chính là đạo của bản thân được thực thể hoá. Chí tôn cảnh sừng sững trong lĩnh vực nhân đạo, tuy thoát khỏi sự hợp nhất với thiên địa, nhưng chí tôn vẫn có thể sử dụng đến thiên địa chi lực, đây cũng chính là điều làm cho những cảnh giới thấp hơn không thể ngang hàng với chí tôn, chỉ cần chí tôn muốn việc miễu sát một trường sinh giả là một việc hết sức đơn giản.

Chân tiên cảnh, chí tôn một thân tu vi cường hãn, nhưng vì đã tách hợp nhất với thiên địa nên tuổi thọ mỗi chí tôn chỉ còn từ tám đến chín vạn năm là cùng. Sau chín vạn năm chính là đại hạn của chí tôn, nếu không thể thành tiên chí tôn sẽ rơi rụng hoá thành tinh tú trên trời.

Mãi đến khi Hồng Mông Đế đạt đến chí tôn cảnh, ngài ấy muốn bước thêm một bước nữa, vì vậy đã gom hết hàng ngàn hàng vạn những ngôi sao mà mấy đời chí tôn trước đó vẫn lạc do đến đại hạn hoá thành lại với nhau.

Rồi hợp những ngôi sao đó lại xây lên một con đường, con đường này gọi là bất hủ chi lộ, sau này Hồng Mông Đế đặt tên cảnh giới là chân tiên, nên con đường này được gọi lại là tiên lộ.

Sau này tu sĩ thành đạo chí tôn, trước khi đến đại hạn phải bước lên được tiên lộ, dù là nửa bước cũng có thể kéo dài tuổi thọ của họ. Chỉ cần tiên lộ có người nối tiếp, tuổi thọ của chân tiên sẽ mãi được kéo dài không thấy điểm cuối.

Kiếp tiên hay còn gọi là tiên vương, ở cảnh giới này chân tiên buộc phải độ kiếp để thành vương. Nhưng thiên kiếp ở chân tiên cảnh lại mạnh đến nổi một tia tùy ý đánh ra cũng có thể lấy mạng một vị chí tôn cực đỉnh. Vì vậy cho nên số lượng chân tiên thành vương rất ít, do độ không quá nhưng nhiều là sợ hãi không dám bước ra bước này.

Tiên lộ thật ra cũng chỉ là một con đường được bồi đắp nên từ đạo của người khác, muốn bất hủ trên con đường của người khác là một việc Hồng Mông Đế không làm. Kiếp tiên là cảnh giới đưa tu sĩ rời khỏi tiên lộ, bước lên lại con đường của mình trước đó hoặc khác. Hay nói cách khác nếu trường sinh là điểm dừng chân của chí tôn, thì chân tiên là điểm dừng chân của kiếp tiên.

Tuy gian nan là vậy nhưng khi tu sĩ thành công trở thành kiếp tiên, thọ mệnh của mình do mình nắm giữ, đạo của mình chưa tận thọ chưa tàn. Về sức mạnh của kiếp tiên, một ý niệm đồ vạn linh. Ở cảnh giới này tu sĩ đã không thể nói đùa, vì mỗi một lời nói ra của tu sĩ tiên vương chính là pháp chỉ, tu sĩ sẽ phải dùng mọi thủ đoạn để thực hiện lấy pháp chỉ của mình.

Tiên đế cảnh, ta chỉ biết ở cảnh giới này có thể thoát khỏi sự chưởng khống của thiên đạo, về cách để thành đế... Đế cảnh hai trăm vạn năm trước đã bị Ngọc Đế chém đứt, muốn thành đế, phàm là tu sĩ của kỷ nguyên này e rằng không có cơ hội.”