Chương 5
Max thả ánh mắt dạo chơi trên bắp chân phía sau của Lola lên tới chiếc khăn len màu đỏ mà cô một lần nữa vừa ghim lại quanh eo. Cô đã cởi cái váy ướt và thay sang áo sơ mi trắng. Áσ ɭóŧ ướt đẫm của cô gây hai điểm rõ mồn một trên ngực áo và tạo ra một đường viền ngang lưng cô. Max tự hỏi cô có treo qυầи ɭóŧ trong phòng tắm như hôm qua nữa hay không.Cô đã lôi tóc qua cạp sau của một chiếc mũ bóng chày mà cô tìm thấy được ở đâu đó, và một tay cô cầm một cần câu. Ở cuối dây câu cứng cáp, cô buộc hai mồi jig cách nhau vài chục centimet, rồi cô quăng chúng qua mạn thuyền. Cô để dây tự kéo khoảng mười dây rồi mới đẩy một cần gạt ở cạnh tay quay lên và dừng dây lại.
Anh nhìn sang nét nhìn nghiêng của cô, đôi mắt nheo lại sau hai mắt kính râm màu xanh, và nhìn quyết tâm sắt đá ở khóe miệng cô. Rõ ràng là cô đang nghĩ đến việc câu cá vượt mặt anh, và Max thà tự cắn lưỡi mình còn hơn là thú nhận việc đó cũng chẳng khó thành cho lắm. Lola kéo cán gậy về phía sau, rồi lại để nó rơi xuống, và anh hình dung ra đâu đó dưới nước, mồi jig của cô đang nảy lên nảy xuống, thu hút sự chú ý của những con cá thu hoặc cá hanh hoặc bất kỳ một con gì cả tin dưới đó.
Không hành động quá lộ liễu, anh thu dây cầu của mình lại. Chậm rãi và nhẹ nhàng, cho đến mồi câu chạm vào thành tàu và nhảy lên mép thuyền.
“Bắt được gì không?” cô hỏi, mặc dù rõ như ban ngày là anh chẳng bắt được gì rồi.
“Chẳng có gì đáng kể.” Anh nhỏm dậy khỏi ghế và đi tới hộp đồ nghề.
Cô nhấc cán cần lên, rồi lại hạ nó xuống, rồi nói với anh đầy vẻ ta đây, “À.” Theo đó là, “Cần vài chỉ dẫn không?”
“Không.” Anh cắt mồi khỏi cuối dây câu và lục lọi tìm một thứ gì đó trông giống hai cái mồi jig mà cô vừa buộc vào cuối dây câu của cô. “Nhưng nếu tôi cần ít bí quyết về cách làm áσ ɭóŧ, tôi sẽ nhớ đến cô.” Dẫu là một tay quăng dây cừ khôi, Max mới chỉ bắt được chính xác là hai con cá hồi trong đời. Hai mươi phút trước, anh cũng không lo lắng đến chuyện có bắt được gì hay không. Con thuyền được dự trữ đủ lương thực để duy trì một khoảng thời gian, nhưng cô vừa phát đi một thách thức không lời và tuyệt đối không đời nào có chuyện Max lại bị một cô gái câu cá vượt mặt hết. Đặc biệt là cô gái nữ tính như thế kia.
Anh là một thằng đàn ông. Loài ăn thịt. Cô quen với việc làm mẫu bikini và có một con chó con hay sủa. Anh từng là một thành viên của đội SEAL sáu khi họ bắt giam Manuel Noriega, Pablo Escobar, cũng như nửa tá tay độc tài và vua thuốc phiện khác. Anh đã từng tham gia vào việc lên kế hoạch và giải cứu tổng thống Jean Bertrand Aristide của Haiti, và khi đội sáu bị giải tán, anh đã được phòng phát triển chiến tranh đặc biệt của hải quân tái tuyển để lãnh đạo một đội vũ trang chống khủng bố. Cô thì thiết kế đồ lót. Bắt được một con cá lớn hơn của Lola Carlyle thì khó đến thế nào chứ?
Max ném mồi jig qua mạn thuyền và kìm nó lại khi anh đoán anh đã thả đủ dây ra. Quần sịp của anh cũng sắp khô rồi, và anh nhét cán gậy vào lỗ giữ cần câu. Anh đi qua phòng ăn tới phòng nghỉ, nơi anh nhét mình vào cái quần sooc mà anh đã mặc hôm qua. Anh cầm lấy ít nho và những thanh ngũ cốc còn sót lại làm bữa sáng, rồi hướng ngược ra ngoài.
Trước âm thanh anh đang đến, cả Lola lẫn con chó của cô liếc lại nhìn anh. Cơn gió nhẹ đung đưa chân tóc cô và chơi đùa với vạt khăn mà cô đang mặc thành váy. Trong lúc cô tiếp tục giữ vị trí canh gác, nhấc cán cần câu của cô nảy lên nảy xuống, con chó của cô rời khỏi cái ghế dài. Bé Cưng theo Max tới chỗ ghế của anh, và khi anh ngồi xuống, con chó nhảy lên lòng anh.
“Nào nào,” anh nói, và di con chó tới đùi trái. Anh rút ra vài thanh ngũ cốc và ném một thanh cho Lola. Rồi anh bóc vỏ một thanh nhân mật ong và yến mạch rồi đút một miếng cho con chó. Anh ghét phải nhìn thấy bất kỳ thứ gì bị đói. Kể cả là con vật kém cỏi tội nghiệp đang ngồi trên đùi anh đi nữa.
“Không phải hôm qua anh bảo tôi rằng anh đang ở Nassau vì việc của chính phủ sao?”
Anh ngước lên khi Lola cắn bữa sáng của cô một miếng. “Đúng rồi,” anh trả lời.
Với đại tây dương xanh thẳm gợn sóng xa xa cô, hơi làm con thuyền lắc lư, cô tiếp tục bài thẩm tra. “Nhưng hôm nay anh lại nói mình bị ép nghỉ hưu khỏi Hải quân.”
“Đúng thế.” Bé Cưng cắn răng rắc, nhai và kêu ăng ẳng đòi thêm. “Hải quân đã cho tôi nghỉ hưu bốn năm trước.”
Cô nhét cán gậy của cô vào một cái lỗ, rồi quay sang đối mặt với anh. “Làm sao có thể thế được? Chẳng phải Hải quân cho anh lựa chọn nghỉ hưu hay vào tù sao. Làm sao anh vẫn làm việc cho họ cho được?”
Max đặt con chó lên sàn và cho nó một mẩu ngũ cốc lớn. Bé Cưng nhanh chóng nhai nó lạo xạo, rồi nhảy lên ghế dài và chuẩn bị đánh một giấc ngon lành. Chuyến du ngoạn vào đại dương buổi sáng của nó cuối cũng cũng đòi thiệt hại. “Con chó của cô có một bộ ruột vứt đi.”
“Con chó của tôi có tên đấy.”
“Ừ nhỉ, và cái tên đó cũng là một nỗi xấu hổ với nó,” anh nói, thậm chí khi vị trí con cún con ấy đang bắt đầu lớn lên trong anh. Tuy vậy, cái tên thật hết sức ngu ngốc, và không đời nào có chuyện anh sẽ nói cái tên ấy thành tiếng hết. Không cho dù có ai đó đe dọa thêm một trận đánh đập hoặc một vòng tra tấn nữa.
“Anh đang lảng tránh câu hỏi của tôi.”
“Không lảng tránh, chỉ không trả lời thôi.”
“Anh có phải một dạng điệp viên không?”
“Không. Tôi không làm việc cho CIA.”
Vành mũ của cô tạo thành một dải bóng râm lên nửa mặt trên ở kính râm của cô. “Anh là một trong những người làm việc ngầm đấy à?”
“Cô xem tivi quá nhiều rồi đấy.”
“Và anh thay đổi chủ đề mỗi lần tôi hỏi anh một câu hỏi.”
“Không phải mỗi lần. Chỉ khi cô hỏi một câu hỏi mà tôi không thể trả lời được thôi.”
“Ý anh là sẽ không trả lời.”
“Không thể và sẽ không.”
Cô giải quyết nốt thanh ngũ cốc rồi tiếp tục, “Anh đã kết hôn chưa?”
“Chưa.
“Ly hôn?”
“Chưa.”
“Lừa một phụ nữ nào đó làm bạn gái?”
“Tôi đã kể cho cô rồi, tôi không dính líu đến chuyện yêu đương.”
“Đúng rồi nhỉ. Sao thế?”
“Tất cả những câu hỏi đó là sao vậy?”
Cô dịch lại gần vài bước và ra dấu bảo anh chuyển cho cô mấy quả nho. “Tôi đã mất ống nhòm và gương trong đại dương, và giờ thì chẳng có gì để làm ngoài câu cá hết. Tôi thấy buồn chán, và vì anh đã bắt cóc tôi, ít nhất anh cũng có thể cho tôi gì đó để nghĩ đến ngoài việc tôi dễ chết ngoài này đến mức nào.”
Max đặt một chùm nho vào bàn tay duỗi ra của cô và rê ánh mắt dọc lên cổ tay mượt mà tới nơi mà cô đã xắn cổ tay áo sơ mi lên ngay dưới khuỷu tay. “Tôi không bắt cóc cô, và có đủ thức ăn lẫn năng lượng để duy trì một khoảng thời gian, nên cô sẽ không dễ chết sớm đâu.”
“Có lẽ chết vì buồn chán chăng. Tôi đã quen với việc bận rộn, và tôi cần chút phân tâm.”
Max nhìn cô đặt một quả nho giữa hai môi và mυ'ŧ nó vào miệng. “Cô có gì trong đầu rồi nào?” anh hỏi, mặc dù anh chắc chắn rằng anh có thể tự mình đưa ra chút phân tâm rất tốt. Một cách “bận rộn” chẳng liên quan gì tới việc trò chuyện và liên quan mật thiết tới cái cách cô mυ'ŧ nho. Anh ước gì cô chưa bao giờ kể cho anh rằng cô từng thủ vai Linda Lovelace.
“Kể cho tôi về bản thân anh đi,” cô nói, rồi mυ'ŧ một quả nữa trước khi quay sự chú ý lại với cần câu cá.
Max nhỏm dậy khỏi ghế hơi quá gấp gáp và nghiến răng trước cơn đau bên lườn. Anh cầm lấy cần câu cáa mình và quay lưng lại với Lola, chỗ phình ra đột ngột trong chiếc quần đùi bó chật của anh thẳng thừng thông báo sự thật rằng anh vừa hơi dựng lên. Cô chắc sẽ lại buộc tội anh muốn có dính líu yêu đương mất. Yêu đương chẳng có liên quan gì tới hướng suy nghĩ của anh hết, nhưng cái hướng đặc biệt đó cần thay đổi. Thật nhanh. “Cô muốn biết gì nào?”
“Anh từng kết hôn chưa?”
“Chưa.”
“Từng suýt chưa?”
“Chưa bao giờ.”
“Sao thế?”
“Chưa bao giờ tìm được một người nữ làm tôi nghĩ đến chuyện lâu dài.”
Cô im lặng một lúc trước khi nói, “Có lẽ anh mắc chứng sợ gắn bó.”
Max hẳn sẽ rất thích được tặng một đô la cho mỗi lần anh nghe được câu nói đó. Nó dường như là một chủ đề phổ biến trong phái nữ, như thế họ sinh ra đã có câu đó đóng chặt trong não vậy. Thiếu gắn bó không phải một chủ đề ưa thích của anh, nhưng nó có khiến du͙© vọиɠ của anh nguội đi. “Cô từng đính hôn bao nhiêu lần rồi?”
“Hai lần.”
“Có lẽ cô cũng bị chứng gắn bó ám ảnh đấy nhỉ?”
“Không, tôi là nam châm thu hút lũ khốn.”
Max quay lại nhìn cô, nhìn đôi môi căng mọng và xương gò má cao, bộ ngực lớn và cặp chân dài của cô. Lola Carlyle là một thỏi nam châm, đúng vậy. Cô rõ ràng là đã lôi kéo những suy nghĩ vụn vặt bẩn thỉu lên trên cùng não anh.
“Anh đến từ đâu,
Anh quay ánh mắt lại với Đại Tây Dương gợn sóng. “Tôi sinh ra ở Miami và đã sống khắp miền nam. Nhưng chủ yếu là ởTexas.”
“Chỗ nào ở Texas vậy?”
“Đúng nơi mà cô nghĩ đến ấy, tôi đã sống ở đó.”
Bởi hướng giọng cô, anh biết rằng cô vừa quay về phía anh. “Anh không có trọng âm địa phương nhỉ. Tôi từng hẹn hò một tay chơi ầm ĩ đến từ Texas, và trọng âm của anh ta rất nặng.”
Ngoài vài vết sẹo, Max không có một dấu hiệu hay hình xăm nhận dạng nào và anh đã loại bỏ bất kỳ một dấu hiệu trọng âm địa phương sẽ làm anh khác biệt theo bất kỳ cách nào. Nhưng giọng miền nam có trong máu anh rồi, và thi thoảng, khi anh mệt mỏi hoặc quá thư giãn, nó lại lẻn vào cách nói chuyện của anh. “Tôi đã lao động khổ cực để thoát khỏi nó, và bố tôi là người Cuba, nên thực ra tôi cũng không lớn lên cùng cái giọng ấy khi ở nhà. Nếu buộc phải nói thì tôi từng phải lao động vất vả nhất là để thoát khỏi trọng âm Tây Ban Nha mà tôi lây từ ông.”
“Thế mẹ anh thì sao?”
“Bà đã chết khi tôi ba tuổi.”
Cô im lặng vài giây, rồi nói, “Tôi rất tiếc. Điều đó hẳn phải khủng khϊếp với anh lắm.”
“Cũng không hẳn.” Anh giữ ánh mắt trên các ngọn sóng, nhìn thật lâu vào điểm ấy cho tới khi đường ranh trước mặt anh nhòa đi. “Tôi chưa bao giờ biết bà, nên tôi cũng chưa bao giờ biết mình đang bỏ lỡ điều gì. Dù vậy mỗi ngày trong đời, bố tôi đều nhớ bà,” anh nói, và tự hỏi sao anh bất thình lình lại thổ lộ ruột gan ra như vậy. Max không phải loại đàn ông tâm sự nhiều về bản thân với một người nào. Đặc biệt là phụ nữ. Phụ nữ có xu hướng vỗ đầu anh, phân tích anh dưới quần đùi, rồi muốn ký hợp đồng chữa bệnh cho anh. Việc anh đang tâm sự chuyện bản thân với Lola Carlyle rõ ràng là một dấu hiệu cho thấy mức độ buồn chán của anh
“Tên bà là gì thế?”
Anh quay lại và nhìn cô. “Để làm gì?”
“Tôi muốn biết.”
“Eva Johansson Zamora. Bà là người Thụy Điển.” Và nói chuyện với cô vẫn còn tốt hơn là nghĩ đến cảnh Lola mυ'ŧ nho vào miệng. “Bố tôi thường nói rằng điều đó khiến tôi thành người Cuba lai.”
Cô mỉm cười và lắc nhẹ cán cần lên rồi xuống. “Khác thường, điều đó là chắc chắn. Sao bà lại chết?”
“Bà và bố tôi đang băng qua đường Eighth ở Little Havana, và bà bị ô tô đâm. Ông kể rằng tay bà bị giằng khỏi tay ông.”
Nụ cười của cô tắt ngóm và cần câu dừng lại. “Thật khủng khϊếp, Max. Lúc ấy anh ở đâu?”
Vì cô không hề lải nhải, nhìn anh đầy thương hại, và cũng không lao tới trao cho anh một cái ôm ấm áp bối rối, anh kể cho cô nghe. “Ở bên tay kia của bố tôi. Cả hai chúng tôi không ai bị thương. Bà thì chết trước khi kịp tới bệnh viện.”
“Anh có nhớ chuyện đó không?”
“Không rõ lắm. Tôi có ký ức mơ hồ về các ngọn đèn lập lòe, nhưng chỉ thế thôi.”
“Trời ơi, thế mà tôi lúc nào cũng nghĩ mình có một tuổi thơ khó khăn đấy.”
Mừng vì chủ đề thay đổi, anh hỏi, “Điều gì khiến tuổi thơ của cô khó khăn đến vậy?”
“Chậc, nó cũng không thực sự là khó khăn, nhưng tôi vẫn quen nghĩ là thế.” Cô nhìn ra đại dương, và làn gió mặn lay lay ống tay áo sơ mi của cô. “Em trai Jed của mẹ tôi là một người thuyết giáo của phái Tin Lành, và không phải dạng hời hợt đâu nhé. Mà là loại anh không thể uống rượu, tô son, hoặc nhảy nhót ‘bởi vì sẽ có ai đó có thể trở nên phấn khích. Những thứ trần tục và tội lỗi.’ Thời điểm duy nhất mà anh có thể nhảy là ở trong nhà thờ khi tinh thần đưa đẩy anh. Trong gia đình tôi, có một ông cậu làm nhà thuyết giáo cũng giống như Giáo hoàng là cậu anh nếu anh theo Công Giáo vậy.Chúng tôi đã luôn phải ngồi ở chỗ cầu nguyện và hét ‘kính Chúa’. Và bởi vì chúng tôi có một nhà thuyết giáo trong gia đình, tất cả họ hàng của tôi đều cho rằng chúng tôi tiến một bước gần đầu gối Chúa hơn so với tất cả những người khác trên trái đất.”
“Vậy nên, khi tôi ba tuổi và muốn ông già Nô-en mang tới cho tôi son môi, phấn mắt, và một cái áσ ɭóŧ trong suốt, chẳng ai thấy vui vẻ hết. Khi tôi mười lăm tuổi và bị tóm đang uống rượu và sờ mó T.J.Vandegraft, gia đình tôi còn hơn cả xấu hổ.” Cán cần câu của cô nảy lên nảy xuống và cô tiếp tục, “Mẹ tôi tin rằng tôi đã thừa kế gen lầm lỗi từ bên cha tôi. Ông có vài họ hàng xa nốc bia từ chai và chơi bời như thủy thủ mỗi kỳ nghỉ cuối tuần.”
Max cười sâu trong l*иg ngực. “Tôi hình dung rằng làm mẫu đồ lót không qua cửa suôn sẻ lắm đâu nhỉ.”
“Lúc đầu thì không, nhưng rồi chú Jed bị bắt quả tang đang gây giống sau bục giảng với một trong các cô con gái nhà Lyle – tôi tin Millicent là tên cô ta.” Cô nhún vai. “Ông đã diễn đủ trò ‘tôi có tội’ kiểu Jimmy Swaggart [14] , rồi khóc lóc và cứ làm thế mãi. Nhưng vì Millicent vừa qua tuổi vị thành niên và lại đang có thai, vợ ông đã rời khỏi nhà thờ. Sau vụ đó, mọi chuyện gần như thân ai người ấy lo vậy, và đột nhiên việc tôi làm để kiếm sống cũng không quá khủng khiế p nữa.” Cô nhìn qua vai và mỉm cười với anh. “Tôi chỉ mừng vì mình không còn là tội đồ lớn nhất nữa.”
[14] Một nhà thuyết giáo qua truyền hình nổi tiếng ở Mỹ những năm 70, 80. Năm 1988, ông ta bị điều tra về việc có bê bối với gái bán da^ʍ. Đầu tiên ông ta phủ nhận các cáo buộc, nhưng khi truyền thông vào cuộ c, ông ta đã lên tivi xin lỗi
Anh nhìn cô đang đứng đó, bàn chân trần, cặp chân dài, với cái mũ kéo cụp xuống trán, và lần đầu tiên kể từ khi anh nhìn vào ví cô và thấy bằng lái xe của cô, anh không chỉ thấy một cô người mẫu khó chịu đang nhìn lại anh. Không chỉ là một phụ nữ với cơ thể chết người in bóng trên nền xanh của Đại Tây Dương cùng màu trời xanh buổi sáng nhàn nhạt. Anh nhìn thấy một người con gái với những rắc rối y như ai khác. Một phụ nữ có tính hài hước tự hạ thấp mình và một nụ cười làm anh phải dõi theo môi cô.
“Có anh chị em nào không?” anh hỏi cô.
“Một chị gái, Natalie. Chị ấy lớn lên lúc nào cũng hoàn hảo. Không bao giờ quan tâm đến son môi hay rượu bia. Chị ấy có năm đứa trẻ hoàn hảo và là một bà nội trợ hoàn hảo. Chị ấy kết hôn với một người chồng hoàn hảo, Jerry, một người thực ra cũng là một anh chàng tử tế.”
Max không chắc lắm, nhưng anh nghe chừng Lola thực sự có ghen tị với chị gái mình. Lola Carlyle, người mẫu áo tắm của tờ Sports Illustrated , lại ghen tị với một bà nội trợ ư? Không thể nào. “Đừng nói với tôi là cô muốn năm đứa nhóc đấy.”
“Không, chỉ hai thôi, nhưng trước tiên tôi phải tìm một ông chồng đã. Không may thay, điều đó có nghĩa là tôi lại phải bắt đầu hẹn hò. Và tôi dường như thu hút những tên đàn ông chỉn chu. Hay còn tệ hơn, những tên thiếu thốn tình cảm, và cuối cùng tôi lại chăm sóc cho chúng.” Cô dừng lại để hít một hơi trước khi hỏi, “Anh có muốn trẻ con không?”
Trẻ con là thứ chót bảng mà anh muốn. “Không.”
Cô xem xét anh một lúc. “Trông anh cứ như thể tôi vừa hỏi xem anh có muốn chân răng không vậy. Anh không thích trẻ con à?”
Anh thích trẻ con vừa đủ. Con của người khác ấy. “Cô thực sự muốn tôi tin rằng cô không hẹn hò sao?” anh hỏi thay vì trả lời câu hỏi của cô.
Cô thở dài trước nỗ lực công khai thay đổi chủ đề của anh, nhưng cô cho qua. “Có sự khác biệt giữa việc đi ra ngoài ăn tối với một người đàn ông và muốn người đó là cha của các con anh. Tôi không có tiểu sử thành tích vĩ đại với đàn ông đâu.” Cần câu của cô đột ngột cong thành hình cung và gần như bị giật khỏi tay cô. “Tôi nghĩ tôi bắt được thứ gì đó rồi!”
Max quan sát cán gậy cong thêm đôi chút và anh nhét cần câu của mình vào lỗ nhỏ trên ghế. “Cô có cần giúp kéo nó lên
“Không. Đi tìm cái lưới đi,” cô chỉ thị khi mở cánh cửa tới bục tắm ra. Cô đi xuống các bậc thang và quay tay khi nói. “Và cũng nên có một cái kéo chốt cần nào đó nữa nhé.”
Anh tìm thấy một lưới bắt cá trong nhà kho nơi anh đã phát hiện ra gậy câu cá và dụng cụ câu, và một thứ gì đó tương tự như một chiếc kìm.
Chết tiệt là cô đã câu cá vượt mặt anh.
“Nhanh lên,” cô gọi toáng lên khi anh đi xuống cầu thang. Ngọn sóng đã dâng lên thêm khoảng chục centimet nữa, và giờ nước biển đang vỗ lên bục tắm và bàn chân trần của Lola.
Con cá đầu tiên nhô lên hẳn khỏi mặt nước, một con cá màu xanh tinh khôn nhỏ nhắn với đuôi và mắt màu vàng rực. Max không biết con cá này loại gì, nhưng con thứ hai rõ ràng là thuộc loại cá mú. Da nó màu be trơn tuột với các sọc nâu và chấm xám. Thêm vào phần màu sắc không thể ấn tượng hơn là trọng lượng mà Max đoán vào khoảng bảy cân. Anh vốc con cá vào lưới, con cá xanh nhỏ quẫy cái đuôi vàng của nó.
Họ lại hướng về đuôi thuyền, và Lola bắn ra các chỉ thị qua vai khi Max mang lưới và con cá lên cầu thang. “Anh cần bỏ lưỡi câu ra, và rồi chúng ta cần tìm một thùng đá hoặc thứ gì đó lạnh để cho chúng vào. Anh có thể mổ chúng ngay bây giờ nếu muốn.”
Không vấn đề, nhưng chúng không phải cá của anh. “Tôi tưởng cô đã nói cô từng đi câu với ông cô trên chiếc thuyền cho thuê của ông ấy cơ mà.”
“Đúng thế, nhưng ông đã bỏ lưỡi câu ra và mổ ruột cá hộ tôi.” Lông mày cô trĩu hẳn xuống trên đôi mắt nâu khi cô ngước nhìn anh. “Những chuyện đó là việc của đàn ông.”
“Vậy là, công việc duy nhất của cô là kéo chúng lên?”
“Tất nhiên rồi,” cô trả lời như thể anh bị thiểu năng
Nhưng Max không sinh ra đã thiểu năng và biết rõ rằng cô đang thiết lập các luật lệ khi cô tiếp tục. Anh kéo con cá xanh nhỏ ra khỏi lưới và gỡ móc câu khỏi miệng nó. Anh đặt nó lên sàn, nơi nó quăng mình lật ngược lại.
“Chúng không phải rất đẹp sao?” Lola kêu lên, đặc biệt tự hào, như thể cô tự mình tạo ra chúng vậy.
“Chúng trông cũng được.” Anh bế con cá mú ra khỏi lưới và gỡ móc câu. Vậy là, cô đã bắt được hai con cá. Có gì ghê gớm đâu. “Trong một nhiệm vụ huấn luyện ở Malaysia, tôi đã bắn vỡ đầu một con rắn mang bành và lấy nó làm bữa sáng đấy.”
Cô nhìn anh qua khóe mắt. “Và anh kể cho tôi chuyện này... bởi vì?”
Anh đặt hai con cá cạnh nhau nhưng không trả lời. Anh không biết lý do mình lại kể cái câu chuyện ngu ngốc đó ra. Ngoài lý do rằng có thể anh muốn gây ấn tượng với cô, một điều thật xấu hổ để mà thú nhận, thậm chí cả với bản thân anh.
“Anh cảm thấy bị đe dọa à?”
Anh ngước nhìn cô. “Bởi cái gì cơ?”
“Bởi tôi. Việc tôi bắt được cá đe dọa đến bản lĩnh đàn ông của anh à?”
Max tặc lưỡi khi đứng dậy. Anh không cảm thấy bị đe dọa, chỉ thấy lố bịch thôi. “Cưng à, bản lĩnh đàn ông của tôi vẫn ổn. Để khiến tôi cảm giác ít đàn ông hơn phải tốn nhiều hơn con cá bé xíu của cô đấy.”
“Nghe anh có vẻ ghen tị nhỉ.”
Có lẽ đôi chút, nhưng anh sẽ không bao giờ thú nhận điều đó. Không bao giờ. “Với mấy con cá bé xíu đó chắc? Còn lâu nhé.”
Bé Cưng nhảy khỏi ghế và vẩn vơ đi tới chỗ lũ cá. Con cá mú đập đuôi xuống sn và chú cún nhảy lùi lại. “Để mắt tới Bé Cưng trong lúc tôi đi tìm thùng đựng đá nhé,” cô chỉ thị, rồi đi vào phòng ăn.
Chú chó dựng tai lên và nhích lại gần. Nó liếʍ đuôi con cá mú và bị đập vào mũi. Một lần nữa nó lại rút lui.
Max liếc nhìn cánh cửa phòng ăn, rồi hạ giọng. “Đừng có làm một con chó đỏng đảnh nữa và đi qua đấy đi. Nhanh lên nào.” Anh không thể bắt mình gọi chú chó bằng cái tên ẻo lả của nó, nên anh quyết định, “Qua đó đi, B.C, và cho con cá đó xem ai mới là chủ.”
Được lời khuyến khích của một con đực khác làm chỗ dựa, Bé Cưng tới chỗ đầu cá, khịt khịt hai lần, rồi liếʍ mắt con cá. “Đúng rồi, thế mới là một cậu bé ngoan chứ.”
“Bé Cưng!” Lola đi ra từ phòng ăn và lấy tay đập vào nắp một thùng giữ lạnh Styrofoam. “Tránh xa lũ cá đó ra.” Cô đặt cái thùng xuống sàn, rồi ngước lên nhìn Max. “Tôi tưởng anh sẽ trông chừng nó chứ.”
Max không nhớ từng đưa ra một lời cam kết nào như vậy hết. “Con chó của cô nghe không được rõ lắm.”
Trong thùng, Lola đã đặt hai túi đá đông lạnh có thể tái sử dụng. “Đá trong tủ lạnh tan gần hết rồi, nhưng những cái này vẫn còn cứng,” cô nói. Rồi cô liếc nhìn anh và thêm vào, “Bắt đầu và đặt chúng vào đi.”
Anh cũng không nhớ đã ký hợp đồng làm tay sai vặt cho cô đâu. “Vinh dự đó thuộc về cô đấy.”
“Không sao đâu mà. Tay anh cũng đã có mùi cá rồi.” Cô nhìn xuống người mình. “Và tôi đang mặc đồ trắng nữa chứ.”
“Ừ phải rồi.” Anh quỳ xuống cạnh thùng lạnh và đặt con cá vào trong. Ghế ngồi câu của anh rê đi vài inch ngang sàn tàu và anh liếc nhìn chiếc cần câu gần như đã cong làm đôi của mình.
“Chúa ơi,” anh rủa, và nhanh chóng nhỏm dậy, hầu như không cảm thấy cơn đau bên lườn khi adrenaline bắn xuyên qua an. Anh tóm lấy cần câu và thu dây câu khi đi tới bục tắm. “Mang lưới đến đây,” anh rống lên với Lola. Bục tắm tròng trành với các con sóng và nước biển vỗ lên chân anh. Anh kéo đầu cần lên và quay như điên. So sánh với hai con cá hồi mà anh từng bắt được, con cá này cứ như một chiếc Buick [15] vậy.
[15] Một dòng xe hạng sang mạnh mẽ, thanh lịch do General Motor sản xuất
Anh thoáng nhìn thấy màu đỏ dưới mặt nước xanh trong. Lola vốc nó vào lưới, và anh ngay lập tức nhấc nó khỏi tay cô. Với c n câu trong một tay, anh xem xét con cá hanh màu đỏ rực rỡ. Nó phải nặng ít nhất mười một cân.
Một lần nữa, anh lại theo Lola tới sàn tàu và gỡ móc câu ra. “Hãy nhìn nó đi,” anh nói khi quỳ xuống và đặt nó lên sàn tàu. Đó là thứ xinh đẹp nhất mà anh từng nhìn thấy trong một khoảng thời gian dài, với lớp vảy đỏ xinh đẹp và những cái vây có gai.
“Nó chỉ là một con cá thôi mà.”
Anh đứng lên và lùi lại một bước để chiêm ngưỡng thành quả của mình. “Nó khổng lồ.”
Lola khoanh tay dưới ngực. “Chậc, tôi đã câu được nhiều hơn anh.”
“Cả hai con của cô không nặng bằng một con của tôi.”
“Anh chưa nghe thấy sao? Kích cỡ không quan trọng.”’
Anh nhìn ra chỗ cô. “Vớ vẩn.” Đôi môi đầy đặn của cô bĩu ra và anh mỉm cười. “Chỉ một thằng đàn ông có kích cỡ của quý nhỏ mới tin vào thứ tào lao đó.”
Lông mày cô nhíu lại và trán cô nhăn nhó. “Tôi chỉ biết điều đó là sự thật.”
Max lắc đầu và bật cười. “Tôi có thể chứng minh cô sai.”
“Cảm ơn, nhưng để khi khác
“Lúc nào cũng được, Lolita ạ.”