Chương 6
Harry đã định về nhà rồi. Anh có thói quen cưỡi ngựa lúc sáng sớm, ngay cả khi ở phố, và khi anh vừa sắp sửa ra khỏi công viên thì nhác thấy tiểu thư Olivia ngồi trên ghế băng. Anh thấy dừng lại để được giới thiệu với cô bạn của nàng cũng thú vị, nhưng sau một lúc chuyện trò nhạt nhẽo, anh thấy cả hai cô không cô nào đủ thú vị để anh có thể bỏ việc mà đứng mãi ở đó.Nhất là vì tiểu thư Olivia là nguyên do khiến cho công việc của anh bị chậm trễ.
Cô ta đã thôi nhòm ngó anh, đúng là thế, nhưng chuyện đó đã để lại hậu quả. Hễ cứ ngồi vào bàn là anh lại có cảm tưởng như cô ta đang chiếu ánh mắt vào anh, ngay cả khi anh biết chắc cô ta đã buông rèm kín mít. Nhưng rõ ràng thực tế chẳng thay đổi được gì cả, bởi vì tựa hồ như anh chỉ có thể làm mỗi một việc là liếc sang cửa sổ nhà cô ta và thế là chẳng tập trung được vào công việc suốt cả giờ đồng hồ.
Như thế này: Anh nhìn sang cửa sổ nhà cô ta, vì cửa sổ vẫn ở đấy, và anh không thể không vô tình liếc sang trừ phi anh cũng buông rèm kín cả lại, mà anh không muốn làm thế bởi hầu hết thời gian anh ở trong phòng làm việc. Cứ nhìn thấy ô cửa sổ, anh lại nghĩ về cô ta; kỳ thực, nhìn vào cửa sổ phòng cô ta thì anh có thể nghĩ được điều gì khác chứ? Lúc đó, anh thấy bực bội vì A) cô ta không đáng để anh phải như thế, B) thậm chí cô ta đâu có ở đấy, và C) vì cô ta mà anh chẳng làm được việc gì.
Lý do C luôn khiến anh thêm bực tức, lần này anh bực chính bản thân mình, vì D) anh phải có khả năng tập trung tốt hơn, E) ấy chỉ là cái cửa sổ ngu ngốc, và F) nếu anh đã tơ tưởng đến một người khác phái nào đấy thì ít ra đó phải là người anh thích chứ.
F luôn khiến anh cằn nhà cằn nhằn và bắt mình trở lại với công việc dịch tài liệu. Thường chỉ làm việc độ một, hai phút anh lại ngước lên, và hình ảnh ô cửa nhà bên lại đập ngay vào mắt, và cả chuỗi suy nghĩ vẩn vơ chết tiệt kia lại bắt đầu.
Đó là lý do tại sao khi trông thấy nét hoảng hốt trên khuôn mặt tiểu thư Olivia Bevelstoke lúc nghe nói đến em trai mình, anh quyết định không quay về nữa, anh chưa phải vội quay về ngồi vào bàn làm việc ngay lúc này. Sau tất cả những bực dọc cô ta gây ra cho anh, anh đang mong được chứng kiến cô ta phải chịu đựng khốn khổ giống anh.
“Thế ngài đã gặp em trai Olivia chưa nhỉ?” cô Cadogan hỏi.
Harry nhảy xuống ngựa; như thể muốn cho thấy anh sẽ nán lại một lúc. “Tôi chưa được vinh hạnh đó.”
Tiểu thư Olivia thoáng cau có khi nghe anh nói từ “vinh hạnh.”
“Anh ấy là em sinh đôi của Olivia,” cô Cadogan tiếp, “mới ở trường về mấy ngày nay.”
Harry quay sang tiểu thư Olivia bảo, “Tôi không biết cô có em trai sinh đôi đấy”
Cô ta nhún vai.
“Thế cậu ấy học xong chưa nhỉ?” anh hỏi.
Cô ta gật đầu cộc lốc.
Anh suýt lắc đầu trước thái độ của cô ta. Cô ta quả là khinh người. Thật tiếc khi cô ta lại xinh đẹp như thế. Cô ta không đáng có được vẻ yêu kiều ấy. Harry nghĩ cô ta nên có một cái mụn cơm to đùng trên mũi mới phải.
“Có thể cậu ấy quen em trai tôi cũng nên,” Harry nói. “Chắc hai người bằng tuổi nhau đấy.”
“Em trai ngài là ai?” cô Cadogan hỏi.
Harry kể cho hai cô nghe một chút về Edward và ngừng lời khi em trai tiểu thư Olivia đến. Cậu ta đi bộ, dáng vẻ hoạt bát đúng phong thái của một cậu tráng niên. Harry thấy cậu ta khá giống chị mình. Mái tóc vàng sẫm hơn nhưng đôi mắt sáng thì y hệt, cả màu sắc lẫn hình dáng.
Harry cúi đầu chào; và cậu Bevelstoke cũng chào tương tự.
“Ngài Harry Valentine, đây là em trai tôi, Winston Bevelstoke; Winston, đây là ngài Harry.”
Tiểu thư Olivia nói giọng đều đều hờ hững đến kinh ngạc.
“Chào ngài Harry,” Winston lịch sự chào. “Tôi có quen em trai ngài.”
Harry không nhận ra cậu ta, nhưng anh nghĩ cậu Bevelstoke này là một trong số bè bạn của Edward. Anh gặp ở chỗ này chỗ nọ rồi; hầu như chẳng ai để lại ấn tượng sâu sắc gì nên anh không nhớ cũng phải.
“Tôi biết ngài là hàng xóm mới của chúng tôi,” Winston đưa đẩy.
Harry gật đầu nói:
“Nhà phía Nam “
“Chính thế.”
“Tôi luôn thích ngôi nhà đó,” Winston nói. Hay đúng hơn là nói như thật. Nghe như thể cậu sắp thao thao bất tuyệt về ngôi nhà. “Bằng gạch, phải không nhỉ?”
“Winston,” Olivia sốt ruột nói, “em biết thừa là bằng gạch rồi còn gì.”
“À, vâng,” cậu ta vừa nói vừa phẩy tay rất tự nhiên “hay ít nhất là tôi cũng khá chắc chắn. Tôi không hay để tâm đến những thứ tương tự như thế, mà ngài biết rồi đấy, phòng tôi trông ra hướng khác.”
Harry cảm thấy một nụ cười thoáng qua trên môi cậu ta. Chuyện dần hay lên rồi đây.
Winston quay sang Harry nói, rõ ràng chẳng vì một lý do nào khác ngoài việc muốn hành hạ chị gái mình, “Phòng chị Olivia trông sang hướng Nam đấy.”
“Vậy à?”
Olivia trông như thể sắp...
“Vâng” Winston lên tiếng khiến Harry không kịp suy đoán xem tiểu thư Olivia có thể làm hoặc có thể không làm gì. Nhưng anh đang nghĩ rất có thể nàng sẽ ăn miếng trả miếng với cậu em.
“Có thể ngài trông thấy cửa sổ phòng ngủ chị ấy rồi đấy,” Winston tiếp tục. “Chắc chắn là thế. Nó...”
“Winston?”
Harry vội lùi lại khoảng ba bốn phân. Tình hình trông có vẻ sắp có bạo lực. Và mặc dù Winston cao to hơn nhưng anh nghĩ mình sẽ đặt cược vào cô chị.
“Chị chắc là ngài Harry không hứng thú với sơ đồ nhà chúng ta đâu,” Olivia ngắt lời.
Winston xoa xoa cằm vẻ tư lự. “Em đâu có nói đến sơ đồ nhà đâu. Em đang nói đến sơ đồ sườn nhà mình mà.”
Harry quay sang Olivia. Anh không nghĩ mình từng chứng kiến ai đó kiềm cơn giận giỏi đến thế. Thật ấn tượng.
“Thật vui gặp anh sáng nay, Winston,” cô Cadogan có lẽ đã nhận ra căng thẳng giữa hai chị em nhà Bevelstoke nên xen vào. “Anh cũng thường ra ngoài dạo sớm thế này à?”
“Không,” cậu ta đáp. “Mẹ bảo tôi ra đưa chị Olivia về.”
Cô Cadogan cười rạng rỡ và quay sang Harry. “Vậy có vẻ như ngài là người duy nhất chịu khó ra công viên này vào sáng sớm ấy nhỉ. Tôi ra đây cũng chỉ để tìm Olivia thôi. Chúng tôi đã không được hàn huyên mấy ngày nay rồi. Cô ấy ốm, ngài biết đấy.”
“Giờ tôi mới biết đấy,” Harry nói. “Hy vọng giờ cô đỡ rồi.”
“Winston cũng ốm đấy,” Olivia nói. Cô ta nở một nụ cười đáng sợ. “Ốm hơn tôi nữa kia.”
“Ôi thế á?” cô Cadogan thốt lên. “Rất tiếc khi nghe điều đó.” Cô quay sang Winston thể hiện sự quan tâm sâu sắc. “Nếu biết tôi đã mang cho anh một ít cồn thuốc rồi.”
“Tớ cam đoan với cậu là lần tới Winston ngã bệnh tớ sẽ thông báo cho cậu ngay,” Olivia bảo. Rồi nàng quay sang Harry, hạ thấp giọng, “Chúng tôi chẳng muốn nhưng vẫn cứ ốm luôn. Mệt lắm.” Và rồi, nàng hạ thấp giọng hơn nữa, gần như thì thào: “Em tôi sinh ra chỉ để ăn với ốm thôi.”
Cô Cadogan đứng lên, dồn cả mối quan tâm vào Winston. “Giờ anh khỏe hơn chưa? Trông anh có vẻ tiều tụy đi đấy.”
Harry nghĩ cậu ta trông khỏe như vâm.
“Tôi ổn,” Winston cắt ngang, rõ ràng cậu ta đang hướng cơn giận dữ sang cô chị, vẫn còn ngồi trên ghế băng, nét mặt cực kỳ mãn nguyện vì cú trả miếng vừa rồi.
Cô Cadogan chuyển ánh nhìn từ Winston sang Olivia thì cô ta lắc đầu nói, “Nó vẫn chưa khỏe hẳn đâu.”
“Vậy chắc là tôi phải mang cho anh cồn thuốc mất,” cô Cadogan nói. “Có hôi một chút nhưng quản gia nhà tôi tin nó lắm. Và tôi nghĩ anh nên về nhà ngay đi. Ở đây trời lạnh lắm.”
“Không cần thế đâu,” Winston kháng cự.
“Dù sao tôi cũng định về rồi,” cô Cadogan xen vào chứng tỏ rằng chàng thanh niên Bevelstoke không đấu lại được khi hai cô gái kiên định kết hợp lại với nhau. “Anh đi cùng tôi chứ.”
“Bảo mẹ là chị sẽ về ngay,” Olivia nói giọng ngọt ngào. Cậu em gườm gườm nhìn cô ta, nhưng rõ ràng cậu đã bị thua cô chị nên chỉ còn biết khoác tay cô Cadogan cùng về.
“Cô được đấy, tiểu thư Olivia,” Harry nói giọng ngưỡng mộ, khi hai người nọ đã đi khỏi tầm nghe.
Nàng đưa mắt nhìn anh ngán ngẩm. “Ngài đâu phải là người duy nhất khiến tôi bực bội.”
Anh không thế bỏ qua cho cô ta vì câu nói đó nên ngồi xuống bên cô ta, ngay chính chỗ lúc nãy cô Cadogan ngồi. “Có gì hay không?” anh hỏi, chỉ vào tờ báo cô đang cầm trên tay.
“Làm sao tôi biết được,” cô ta đáp. “Có ai chịu để yên cho tôi xem đâu.”
Anh cười khùng khục. “Tôi xin lỗi nhưng có điều là tôi sẽ không chiều lòng cô đâu.”
Cô ta mím chặt môi, rõ ràng đang suy tính để trả đũa. Anh ngồi ngả người ra sau, gác chân phải lên đùi trái, dáng điệu uể oải như muốn cho cô ta thấy anh sẽ ngồi lì bên cạnh cô ta. “Sau cùng thì,” anh đăm chiêu, “đâu có vẻ gì là tôi xâm phạm sự riêng tư của cô đâu nhỉ. Chúng ta đang ngồi trên ghế băng nơi công viên Hyde. Không khí của chung, công viên của chung, vân vân và vân vân.”
Anh ngừng, để cô ta có cơ hội đáp trả. Cô ta không nói gì. Vậy nên anh tiếp: “Nếu cô muốn riêng tư, thì lẽ ra cô nên mang báo vào phòng ngủ ấy, hay phòng làm việc cũng được. Đó là những nơi có thể gọi là chốn riêng tư, cô đồng ý không nhỉ?”
Anh lại đợi. Và lại một lần nữa cô ta không thèm nói năng gì. Vậy nên anh hạ giọng đến mức gần như thì thào, “Thế cô có phòng làm việc chứ, tiểu thư Olivia?”
Anh không nghĩ cô ta sẽ trả lời, vì cô ta đang nhìn chằm chằm về phía trước, nhất quyết không thèm nhìn vào mặt anh, nhưng thật bất ngờ, cô ta lên tiếng, “Tôi không có.”
Anh thấy phục cô ta, nhưng vẫn chưa đủ để anh thay đổi chiến thuật. “Tiếc nhỉ,” anh lẩm bẩm. “Tôi thì lại thấy thật thuận tiện khi có một phòng riêng ngoài phòng ngủ. Cô nên nghĩ đến việc có một phòng làm việc đi nhé, tiểu thư Olivia, nếu cô muốn có một nơi đọc báo mà không bị người khác tò mò tọc mạch.”
Cô ta quay sang anh với vẻ mặt lạnh lùng đầy ấn tượng. “Anh đang ngồi lên chỗ đồ thêu của cô hầu gái nhà tôi đấy.”
“Xin thứ lỗi.” Anh nhìn xuống, kéo khung thêu ra - anh chỉ mới chớm mép khung, nhưng anh quyếc định tỏ ra cao thượng và bỏ qua câu nói đó - và đặt nó sang một bên. “Thế cô ấy đâu rồi?”
Cô ta phẩy tay bâng quơ. “Đi đâu đó vói cô hầu của Mary rồi. Chắc là sẽ quay lại bất cứ lúc nào đấy.”
Anh không nói gì về chuyện đó mà chuyển sang đề tài khác, “Quan hệ giữa cô và em trai thú vị đấy nhỉ.”
Cô ta nhún vai, rõ ràng là cố xua anh ta đi.
“Em trai tôi thì ghét cay ghét đắng tôi.”
Điều đó khiến cô ta quan tâm. Cô ta quay sang, cười quá ư dịu dàng và nói, “Tôi rất muốn gặp cậu ấy.”
“Tôi chắc là cô sẽ gặp được thôi,” anh đáp. “Nó không hay vào phòng làm việc của tôi, nhưng khi ngủ dậy vào một giờ hợp lý nào đấy, nó dùng bữa sáng ở phòng ăn nhỏ. Cửa sổ phòng ấy chỉ cách hai cửa sổ nữa tính từ phòng tôi về phía trước nhà thôi. Cô có thể thử tìm nó ở đấy.”
Nàng trừng mắt nhìn anh. Anh đáp lại bằng nụ cười tưng tửng.
“Tại sao ngài ở đây?” cô ta hỏi.
Anh hất đầu về phía con ngựa. “Cưỡi ngựa.”
“Không, tại sao ở đây?” cô ta lớn giọng. “Trên chiếc ghế băng này. Cạnh tôi đây.
Anh nghĩ một lúc. “Cô làm tôi bực mình.”
Cô ta mím môi. “Ra thế,” cô ta nói có chút phấn khích. “Tôi nghĩ thế cũng là lẽ công bằng thôi mà.”
Suy nghĩ đó khá thẳng thắn, kể cả nếu giọng cô ta không thể hiện điều đó. Thì mới chỉ mấy phút trước cô ta đã nói rằng anh khiến cô ta bực mình đấy thôi.
Rồi cô hầu gái đến. Harry chưa trông thấy người đã nghe thấy tiếng cô, chân nện thình thịch trên cỏ ẩm ướt với vẻ khó chịu không giấu đi đâu được, giọng khu Đông đặc sệt.
“Sao có vẻ như cái ả đó cứ nghĩ là em nên học tiếng Pháp nhỉ? Ả đang ở Anh cơ mà. Ối.” Cô ngừng lại, nhìn Harry có chút bất ngờ. Khi cô nói tiếp, giọng cô đã trau chuốt hơn đáng kể. “Em xin lỗi tiểu thư. Em không thấy tiểu thư đang ngồi với người khác.”
“Ngài ấy sắp đi rồi,” tiểu thư Olivia nói, giọng rất đỗi dịu dàng và ngọt ngào. Đoạn cô ta quay sang anh nở nụ cười đẹp mê hồn khiến anh bất giác hiểu rằng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi có nhiều chàng trai xin chết vì cô ta như thế. “Vô cùng cảm ơn vì đã ngồi cùng, ngài Harry,” cô ta nói.
Anh nín thở, và trong đầu lóe lên suy nghĩ cô ta đúng là kẻ nói dối đại tài. Nếu mười phút vừa qua anh không ngồi cùng cô tiểu thư mà giờ trong suy nghĩ của anh là “Cô nàng cáu kỉnh” thì anh có thể đã phải lòng cô ta mất rồi.
“Cô nói đúng,” anh nói giọng điềm đạm, “tôi sắp về rồi.” Và anh đứng lên về thật, kiên quyết không bao giờ gặp lại cô ta nữa.
Ít nhất là không cố tình.
Dứt khoát gạt ra khỏi đầu những ý nghĩ về tiểu thư Olivia, Harry trở lại bàn làm việc vào cuối buổi sáng hôm đó, và đến trưa thì anh đã đắm mình trong cả rừng thành ngữ tiếng Nga.
Kogda rak na goryeh svistnyet = Khi tôm đồng huýt sáo trên núi = Bao giờ chạch đẻ ngọn đa.
Sdelatz slona iz mukha = Biến một con ruồi thành một con voi = Việc bé xé ra to.
S dokhlogo kozla I shersti klok = Ngay cả con dê chết, ngay cả một mẩu len thì cũng đáng giá gì đó =
Có nghĩa là...
Có nghĩa là...
Anh suy nghĩ câu thành ngữ này trong vài phút, lơ đãng gõ gõ bút xuống cuốn sổ nháp, đến lúc sắp sửa bỏ cuộc và tiếp tục công việc thì nghe thấy tiếng gõ cửa.
“Vào đi.” Anh không nhìn lên. Khá lâu rồi anh mới có thể tập trung dịch trọn một đoạn như thế; anh không định phá vỡ nhịp độ này.
“Anh Harry.”
Harry dừng bút. Anh những tưởng ông quản gia mang thư buổi chiều đến, nhưng hóa ra là em trai anh. “À, Edward,” anh nói, rồi cẩn thận làm dấu chỗ đang dịch dở trước khi ngẩng đầu lên. “Ngạc nhiên gớm nhỉ.”
“Của anh đây.” Edward vào phòng đặt một phong bì lên bàn. “Người đưa thư mang đến.”
Bên ngoài phong thư không để tên người gửi nhưng dấu bưu điện thì anh đã quen. Thư của Bộ Chiến tranh, và gần như chắc chắn là chuyện quan trọng; họ hiếm khi gửi những tài liệu loại này trực tiếp đến chỗ anh ở. Harry để nó sang một bên, định bụng sẽ đọc khi còn lại một mình. Edward biết chuyện anh mình dịch tài liệu gì đó nhưng không biết dịch cho ai. Và cho đến lúc này Harry cũng không thấy bất kỳ biểu hiện đáng tin nào ở em mình để anh có thể tiết lộ chuyện này.
Tuy nhiên, lá thư này có thể đợi vài phút. Ngay lúc này Harry đang tò mò không biết em trai anh lên phòng anh thực ra là có chuyện gì. Edward không có thói quen mang thư hay bất kỳ cái gì được gửi đến cho anh như thế này. Thậm chí nếu thư có gửi cho cậu ta thì rất có thể cậu ta sẽ thảy lá thư vào khay ở tiền sảnh để ông quản gia lo.
Edward không đời nào tiếp xúc với Harry nếu không bị buộc phải như thế, vì một lý do khách quan hay vì việc gì cần thiết. Mà việc gì cần thiết ở đây thường liên quan đến tài chính.
“Hôm nay chú thế nào, Edward?”
Edward nhún vai. Trông cậu ta mệt mỏi, mắt đỏ quạch và sưng húp. Harry tự hỏi không biết đêm qua cậu ta về muộn đến mức nào.
“Sebastian sẽ đến dùng bữa tối nay,” Harry nói. Edward hiếm khi ăn ở nhà, nhưng Harry nghĩ có thể cậu ta sẽ ở nhà dùng bữa nếu biết Sebastian sẽ đến.
“Em có kế hoạch cho tối nay rồi,” Edward nói, nhưng rồi thêm, “nhưng có thể em sẽ hoãn lại.”
“Được thế thì tốt.”
Edward đứng giữa phòng, đó là hình ảnh một cậu thanh niên mặt khó đăm đăm và rầu rĩ. Cậu ta đã hai mươi hai, và Harry nghĩ cậu ta tưởng mình đã ra dáng đàn ông, nhưng tác phong của cậu ta còn thiếu chín chắn và ánh mắt còn non nớt làm sao.
Non nớt, chứ không phải trẻ trung. Harry rất bực mình vì bộ dạng phờ phạc uể oải của cậu em. Edward nốc quá nhiều rượu mà có thể lại ngủ quá ít. Song cậu ta không giống cha mình. Harry không thể chỉ rõ sự khác nhau, chỉ biết chắc một điều là ngài Lionel lúc nào cũng vui nhộn.
Không kể những lúc ông buồn và ân hận chuyện gì đó. Nhưng thường tới sáng hôm sau là ông quên mất chuyện ấy.
Edward thì khác. Nuông chiều cậu ta quá không giúp cậu ta trở thành người sống tình cảm. Harry không thể tưởng tượng ra cảnh em trai đứng lên ghế phát biểu về ngôi tường tốt. Edward không thèm cố hòa nhã và cởi mở trong những bữa cơm hiếm hoi với anh trai. Thay vì đó, cậu ta cứ ngồi im lặng như đá, hỏi gì thì chỉ cộc lốc trả lời thẳng vào câu hỏi, cốt sao tiết kiệm từ ngữ tối đa.
Harry đau khổ nhận ra anh không hiểu được em trai mình, không hiểu gì về suy nghĩ hay sở thích của cậu ta. Anh đã rời nhà trong suốt những năm tháng Edward trưởng thành, đến tận Lục địa chiến đấu bên cạnh Seb trong đoàn kỵ binh nhẹ 18. Khi trở về, anh có nhen nhóm lại tình cảm giữa hai anh em, thế nhưng Edward chẳng muốn dính dáng gì tới anh mình. Cậu ta ở đây, tại nhà Harry, chỉ bởi cậu ta không thể xoay xở được tiền thuê nhà riêng. Cậu ta là một đứa em trai điển hình, không có quyền thừa kế, không một kỹ năng ra hồn. Cậu ta giễu cợt lời Harry khuyên gia nhập quân đội, buộc tội anh chỉ muốn tống khứ cậu ta đi cho khuất mắt.
Harry không buồn gợi ý về giới tăng lữ. Thật khó lòng hình dung nổi Edward hướng ai đó theo lối sống đạo đức đứng đắn, và thêm nữa, Harry không hề muốn tống khứ em mình.
“Anh nhận được thư chị Anne hôm đầu tuần,” Harry cho biết. Chị gái họ đã cưới William Fobush năm mười bảy, luôn mãn nguyện với cuộc sống của mình ở Cornwall và không bao giờ nghĩ mình có thể chuyển đến một nơi nào khác. Cô gửi thư cho Harry mỗi tháng một lá, toàn kể chuyện con cái. Harry viết lại bằng tiếng Nga, khăng khăng rằng nếu cô không viết tiếng Nga nữa thì cô sẽ mất hẳn vốn tiếng Nga của mình.
Anne hồi âm bằng cách cắt rời lời cảnh báo của anh ra dán lên một tờ giấy khác kèm theo dòng chữ bằng tiếng Anh. “Đó là điều chị muốn đấy, em trai yêu dấu ơi.”
Harry bật cười, nhưng anh không thôi viết bằng tiếng Nga. Và hẳn Anne đã phải mất thời gian đọc và dịch thư của anh, vì khi hồi âm cô thường bắt em trai giải thích những gì đã viết.
Harry thấy viết thư qua lại như thế rất thú vị và luôn mong được nhận thư chị gái.
Anne không hề viết cho Edward. Trước đây cũng có, nhưng cô không viết nữa khi nhận ra rằng cậu ta sẽ chẳng bao giờ hồi âm.
“Bọn trẻ khỏe cả,” Harry tiếp tục. Anne sinh được năm con, bốn cậu con trai và một cô con gái út. Harry tự hỏi không biết giờ trông chị thế nào. Anh chưa lần nào gặp lại Anne kể từ khi gia nhập quân đội.
Harry ngồi ngả người ra ghế chờ đợi. Bất kỳ điều gì. Đợi Edward mở miệng nói gì đó, đợi cậu ta đi lại, hay đá vào tường. Trên tất cả, anh đợi cậu ta hỏi xin thêm tiền tiêu vặt, vì chắc chắn đó là lý do cậu ta có mặt ở phòng làm việc của anh. Nhưng Edward vẫn nín thinh, chỉ di di ngón chân cái dọc sàn, kẹp mép tẫm thảm sậm màu rồi hất nhẹ nó lên, đoạn lại lấy gót dận nó xuống.
“Sao thế Edward?”
“Tốt nhất là anh nên đọc lá thư đi hẵng,” Edward nói giọng cộc cằn trong khi dợm bước ra khỏi phòng. “Họ báo quan trọng đấy.”
Harry đợi cậu ta đi khỏi mới cầm lá thư từ Bộ Chiến tranh lên. Thật bất thường khi họ liên lạc với anh bằng cách này; thường họ gửi ai đó tận tay mang tới. Anh lật mặt sau lá thư, dùng ngón trỏ gỡ niêm phong rồi mở thư ra.
Ngắn, chỉ hai câu, nhưng rõ ràng. Harry phải đến văn phòng ở Horse Guards, Whitehall ngay lập tức.
Anh rên lên. Bất kỳ chuyện gì đòi hỏi phải có sự hiện diện của anh đều không hay hớm gì. Lần trước họ triệu anh tới là để yêu cầu anh làm bảo mẫu cho một nữ bá tước Nga đứng tuổi. Anh phải kè kè bên bà ta suốt đến ba tuần. Bà ta than phiền nào là về nhiệt độ, thức ăn, rồi thì nhạc nhẽo... Điều duy nhất không thấy bà ta kêu ca gì là rượu vodka, và bởi rượu ấy do chính bà mang theo.
Bà ta cũng cứ cố nài anh uống cùng cho kỳ được. Bất kỳ ai nói được tiếng Nga giỏi như Harry đều không uống thứ rượu hạng bét của Anh, bà ta tuyên bố vậy. Quả thực bà ta làm anh nhơ nhớ bà ngoại.
Nhưng Harry không uống, một giọt cũng không, hết tối này đến tối khác anh phải đổ rượu vào chậu cây cảnh.
Lạ là tưới rượu vào cái cây lại thêm tươi tốt. Có lẽ khoảnh khắc thú vị nhất trong lần làm nhiệm vụ đó là khi ông quản gia cau mày nhìn chậu cây cảnh lạ lùng nói, “Tôi cứ tưởng nó sẽ không thể ra hoa cơ đấy.”
Tuy vậy, Harry không muốn lại lâm vào tình cảnh ấy lần nữa. Song từ chối nhiệm vụ đối với anh là một việc xa xỉ. Nực cười là thế. Họ cần anh, vì dịch giả tiếng Nga không nhiều. Và anh phải làm theo lệnh.
Harry thoáng nghĩ đến chuyện làm cho xong trang còn dang dở trước khi đi, nhưng rồi quyết định thôi. Tốt hơn là để đấy đã.
Với lại bà bá tước đã về St. Petersburg, hẳn đang kêu ca về thời tiết lạnh giá, rồi nắng nôi, rồi không có quý ông người Anh nào ở bên hầu hạ bà từng li từng tí.
Dù lần này họ muốn anh làm gì thì chắc cũng không đến nỗi tệ như lần trước.